Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Phong
Thái
An
Vi
(tiếp
theo)
Kim Định (1915-1997)
IV. ĐƯỜNG LÊN CÁ
TÍNH
I. HỒN KHÓM
1. Cá tính là điểm cao chót vót
mà mỗi con người phải cố gắng đạt tới. Đạt được mới là
người có nhân cách, có giá trị
nhân chủ, cũng như mới đạt cứu cánh cuộc đời. Con đường
đạt tới đó được gọi bằng nhiều tên khác nhau như
quá trình nhân-cách-hóa hoặc
cá-thể-hóa (individualization) của Karl Jung. Nói
nhân cách cũng có nghĩa là đi đến
cùng cực của con người y như nói cách vật
là đến chỗ cùng cực của sự vật.
Vậy tại sao người ta thường lên án cá nhân
chủ nghĩa ? Thưa cần phân biệt: cái gọi là
cá nhân chủ nghĩa mới thực sự đáng lên
án, chứ không phải là cá nhân.
Trái lại cá nhân là sự tiến bộ, tiến bộ nằm
ngay trong phạm vi cá-thể-hóa tức đi vào chi tiết
mới là tiến bộ. Khi ta xem vào vật nào cách
thoáng qua, ta gọi là nhìn hổ-lốn (globale). Khi
ta xem xét từng phần cách tỉ mỉ đi vào chi tiết
thì gọi là phân tích. Sau khi phân
tích, lắp các phần đó lại như trước thì
là cái nhìn tổng quan. Làm người cũng vậy,
nếu cứ xem chung chung cách hổ lốn, không thể tiến bộ, cần
phải chi tiết hóa hay phân tích tỉ mỉ từng phần,
rồi mới tổng hợp lại thành cái nhìn phổ
quát tổng quan mới gọi là người có nhân
cách.
2. Triết An-Vi gọi tiến trình đó là Luật
chí trung hòa nó ở tại đi vào đến chỗ cực
nhỏ thì sẽ có sức cai quát bao la. Nói
khác đường thiêng liêng là đi từ to đến nhỏ:
không phải từ bỏ cái to cái nhiều, nhưng muốn bao
quát được nhiều lại phải đi đến chỗ nhỏ bé, bé
cùng cực đến độ không, thì mới bao quát được
cùng cực. Đi đến tận tâm linh thì sẽ bao
trùm cả vũ trụ, sẽ nói được "Ngô tâm tiện thị
vũ trụ, vũ trụ tức thị ngô tâm" Diễn ra cụ thể là sẽ
coi mọi người như mình: lo cái lo của mọi người, vui
cái vui của mọi người. Ngược lại khi ở lì lại đợt hổ lốn
thì sẽ là cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ
hại nhân, không cần để ý đến tha nhân,
không lo cho nhân loại phổ quát. Đó là
sự ngưng đọng, một căn bệnh của cá thể hóa. Cái
đó mới đáng lên án, chứ còn cá
thể hóa đúng điệu lại chính là con đường
phải tiến, nó thuộc "địa chi đức" là tiến vào tỉ
mỉ y như "thiên chi đức" là bao quát tận
cùng.
3. Trên đây là một phân biệt tối quan trọng
mà xưa rầy chưa được nhìn ra hoặc chưa được nhấn mạnh đủ.
Bài này nhằm đóng góp vào việc
đó bằng chia đường tiến về nhân tính thành
ba chặng là:
* Khóm thể
* Cá thể
* Cá tính.
Khóm thể là thời thái cổ lúc con người
chìm ngập trong đoàn lũ tính, chưa đủ óc
tinh tế để nhận ra những dị biệt bé nhỏ, chưa nhận thức
mình như một thực thể biệt lập, tự túc, tự do nên
chưa thể có hồn thần độc lập mà mới có hồn
khóm ở tại cậy dựa trọn vẹn vào nhau, vào
đoàn lũ, chưa đủ khả năng suy tính dự trù cho một
công việc toàn diện. Tôi gọi là khóm
thể tức là một lối tổ hợp nuốt trọn vẹn cá thể. Cá
thể chưa nhận thức mình, tất cả lẽ sống của nó là
được nuốt trôi vào trong đoàn lũ, được đồng nhất
với cộng đồng.
4. Việc của cá thể chỉ còn la tuân theo tùng
phục trọn vẹn, còn động tác thì thu giồn
vào những việc chân tay lao tác nặng tính
chất gân thịt mà nhẹ phần cân não, chưa đủ
khả năng tự mang lấy trách nhiệm, tự suy tính. Tất cả suy
tư, dự trù, phác họa kế hoạch và đường lối
dành cho một thiểu số mà trung tâm là
tù trưởng, là vua chuyên chế, là nhà
cai trị độc chuyên nắm giữ hết, còn dân sống như một
đoàn vật: ăn làm thì có, suy tính
xếp đặt thì không. Ta thấy ngay rằng bao lâu
còn ở đợt này con người chưa nảy nở hết cỡ người
nên cũng không đạt cứu cánh để thành
nhân. Bậc đó gọi là hồn khóm. Hồn
khóm y cứ trọn vẹn trên lũ đông, lấy lượng
làm chuẩn: không thể tiến mạnh vì sự tiến
hóa nằm trong chữ tác, tiến nhiều hay ít là
tùy theo giá trị của lao tác.
5. Chỉ có những tác động cùng cực mới đẩy cuộc
tiến được đến cùng cực. Mỗi bước tiến bất kỳ trong phương diện
nào từ máy móc cơ khí qua khoa học nghệ
thuật cho tới triết lý đều do một cá nhân
nào đó sáng tạo, đấy là những cá
nhân đã phát triển cơ năng mình đến chỗ
thuận lợi cho việc khám phá đó. Điều này
khó có thể xảy ra ở các nước bị nạn độc tài
chuyên chế ghì giữ toàn dân lại trong đợt hồn
khóm nên bóp nghẹt sự kiếm tìm. Các
chế độ độc tài chuyên chế giam giữ con người lại trong sự
tầm thường có khuynh hướng san phẳng, chỉ thể tiến phần
nào trên chất lượng chứ không trong phẩm
tính; bắt chước thì có, sáng tạo thì
không. Chỉ có sản phẩm, không có tác
phẩm. Tác phẩm đòi sự triển nở cùng cực trên
những nẻo đường khác nhau. Mỗi tác phẩm là một tạo
dựng mới, nó là kết tinh của sự thấu nhập giữa tinh thể
(hồn) và cá thể.
Cá thể bị chi phối do thời không: vì không
thể có hai thời điểm và không điểm như nhau,
nên không thể có sự lập lại y nguyên. Lập lại
thì không còn thời điểm và không điểm
lúc tác phẩm hiện thực, nên không thể
có sự thấu nhập của tinh thể với cá thể vì vậy
không còn là tác phẩm mà chỉ
là sản phẩm của sự sản xuất nhiều cái như nhau theo một
mẫu đã có trước rồi.
6. Đó là lý do tại sao sáng tạo đòi
phải có tự do tìm tòi, đòi phải có
sáng kiến tức là vượt ra khỏi cái đã
có rồi để đi tìm cái mới. Ta thấy các nước
độc tài chuyên môn đi ăn trộm kỹ thuật của nước tự
do, vì chế độ chuyên chế không để dành chỗ
đứng cho cá nhân, không thể có sự khám
phá nên phải đi ăn trộm; nhưng ăn trộm cũng chỉ có
được kỹ thuật là cái còn nằm trong vòng trứ
hình có thể cộng lại, có thể trao truyền, chứ
lên đến bậc mỹ thuật là cái thuộc tinh thần
thì hết có thể ăn trộm, vì mỹ thuật thuộc
cá nhân, mỗi tác phẩm là một kiệt phẩm duy
nhất không những của một cá thể mà còn
là của một cá thể nhất định nọ trong một hoàn cảnh
có một không hai: nếu quả là tác phẩm trung
thực thì chính người ấy cũng không lắp lại được
nữa. Đấy là lý do tại sao nghệ thuật trong các
nước chuyên chế bày ra một cảnh tầm thường vì nghệ
thuật không thể ăn trộm như bên khoa học kỹ thuật. Sự ngưng
đọng trong kỹ thuật là dấu hiệu chứng tỏ sự nằm lì lại
trong đợt khóm thể. Như thế là thiếu dịp hoặc chưa triển
nở đến cỡ có thể phát triển hết các khả năng của
con người: cần vượt hồn khóm để tiến lên đợt hai là
cá thể với hồn thần.
CÁ THỂ
7. Cá thể lấy sự phân biệt, phân
tích làm quan trọng, bắt buộc phải vượt giai đoạn tổng
quan hổ lốn để phân ra từng phần, càng nhỏ càng
tốt. Nhỏ đến cùng cực thì cũng là tiến đến
cùng cực y như khoa học vi thể chứng tỏ điều đó
cách huy hoàng giúp cho đi đến bờ cõi hữu
hình và vô hình gặp nhau. Hữu hình
là neutron vô hình là electron...
Về phần xã hội cũng thế, cần phải tháo gỡ những khối lớn
ra để cho cá thể được quyền thở hút không
khí độc lập tự do đặng phát triển các khả thể tiềm
ẩn nơi mình. Trong chính trị ta gọi đó là
dân-chủ-hóa: ở tại tục hóa mọi quyền bính
không còn cho là nguyên ủy ở trời, ở
thiên mệnh, mà ở ngay nơi người dân thường.
8. Các dân tộc cầm đuốc dẫn đầu trong giai đoạn cá
thể này là Tây Âu, mạnh nhất tự thế kỷ XV trở
đi: thời khởi sự phá vỡ cái vỏ chuyên chế để thiết
lập nền dân chủ, tự đấy trên phương diện khoa học đã
khám phá biết bao truyện, phát minh ra vô số
máy móc giúp nâng cao mực sống. Những
thành công rực rỡ đó nói lên chiều
hướng tiến hóa tốt đẹp hợp theo thiên nhiên, ở tại
sự phân tích tỉ mỉ chi li những dị biệt. Đó
là sự thiết yếu của một trong những bước tiến của đạo làm
người hợp với đường lối thiên nhiên.
9. Có xem xét kỹ mới thấy Tạo Hóa trọng cá
thể biết bao: ngay một hột gạo ta ăn, lên sổ sơ sơ đã thấy
có trên ba trăm thứ; cá biển thì phải kể tự
triệu giống trở lên, chim trời cũng có cả hàng trăm
ngàn thứ không hề đồng đều. Có những cái mới
coi tưởng như đồng đều như cá thể trong cùng một loại,
thí dụ cả triệu con chim sẻ, nhưng nếu xét cho
cùng cực sẽ thấy mỗi con có cái khác với
con kia: mỗi con là một cá thể không trộn lẫn được.
Ấy là con vật mà còn thế phương chi con người
là giống có mầm linh thiêng đã phát
triển hơn mà linh thiêng là đi vào con đường
cá thể cho đến chỗ cùng kỳ cực.
10. Vì thế kết luận được rằng cá thể hóa nằm ngay
trong bản tính con người: chương trình làm
nên người (vi nhân) phải giồn vào việc làm
triển nở cùng cực cái khả năng riêng biệt mà
trời đã phú bẩm cho mình, cần được hiện thực
cá thể đó trong sự hòa hợp với hoàn cảnh.
Hoàn cảnh là cái dấu của cá thể.
Hoàn cảnh thành bởi không gian và thời gian,
vì không bao giờ có một thời điểm với không
điểm lắp lại y như nhau nên hoàn cảnh chính
là cái khung dị biệt cùng cực để giúp
khám phá cá thể, đến nỗi không thể có
hai hoàn cảnh y hệt nhau, chỉ có hoàn cảnh dị biệt
đến độ không thể thay thế. Đấy là lý do sâu
xa giải nghĩa tại sao Đạo làm người tuy là một mà
lại không thể có một nền văn hóa đồng đều cho hết
mọi dân mọi đời... Muốn làm người đến chỗ chí
nhân con người phải tiến tới chỗ dị biệt cách trọn vẹn,
nghĩa là phải huy động cả ý, tình, chí
vào một công việc như đã chỉ sẵn cho mình,
một mình mình đảm trách lấy, không phải như
trong hồn khóm chỉ việc a dua tùng phục, không cần
động đến các cơ năng khác như suy tư, dự tính, đảm
nhận trách nhiệm là những cái làm nên
tư cách con người nhân chủ.
11. Điều quan trọng nhất ở giai đoạn này là phân
tích. Có phân tích mới thấy được những dị
biệt, có thấy được dị biệt mới hiện thực được: khoa học chỉ
thành công trong sự hiện thực những dị biệt cụ thể.
Chính sự phân tích nó giúp con người
đi ra khỏi cảnh đồng nhất ở giai đoạn khóm thể. Đó
là giai đoạn vắng bóng phân tích: giai đoạn
nhìn sự vật trong thể hổ lốn đồng đều (global). Phân
tích là việc làm cần thiết để tiến vào
khách quan khoa học mà Tây Âu đã hiện
thực được cách vẻ vang để tách mình ra khỏi đợt
đầu khóm thể, đợt của văn hóa sơ khai, của loài
người lúc còn ấu trĩ. Nếu trì diên lại đợt
hổ lốn lấy cớ là "vạn vật nhất thể" (vạn vật chỉ là một)
: tất sẽ rơi vào cảnh "trầm không u tịch" (unconscious
aconsnisme) u u minh minh. Đó là cái nhìn
hổ lốn sơ sài lúc đầu (global) khác với cái
nhìn phổ biến tổng hợp chỉ đến sau khi đã phân
tích. Vì vậy cần nhổ mình ra khỏi cái
nhìn hổ lốn sơ khai để đi vào chi tiết.
III. CÁ NHÂN CHỦ NGHĨA SỰ TIẾN GIẢ TẠO.
12. Tuy nhiên đi vào chi tiết là bước cần nhưng
chưa là bước chót, còn phải đi nữa. Ở lì
lại đợt phân tích cũng là ngưng đọng. Những
lý lẽ bênh vực sự ở lì lại này được
công thức hóa thành ý hệ mà người ta
thường đề cao là ý thức hệ, là triết lý,
nhưng thực chất nó thiếu cái hồn triết lý
là phổ biến tính, có khả năng thâu thập mọi
dị biệt vào nền thống nhất bao la. Trái lại ý hệ
là ý niệm, mà ý niệm là những
cái tư riêng, có tính cách độc hữu,
khước từ những dị biệt khác: nên bám theo ý
hệ là ở lì lại trong đợt hồn khóm, hay bái
vật là trình độ rất thuận lợi cho chế độ chuyên chế
bao giờ cũng có tính chất san bằng, đồng điệu hóa.
Do vậy chuyên chế là chủ tịch của giai đoạn khóm
thể bái vật dễ dàng bắt tay với một ý hệ
nào đó, cả hai đều đặt nền móng trên
nguyên lý đồng nhất, đánh mất chữ Tương là
chữ nối các dị biệt lại với nhau, chỉ biết A = A, A là A
trọn hết không còn một liên hệ nào với C, D,
không còn một biến chuyển nào tự A sang A'.
13. Điều được hiện thực trọn vẹn ở thế giới ý niệm thì
nhà độc tài hiện thực vào xã hội con người,
mọi người phải đồng đều y hệt: tự tâm, trí, óc
tưởng tượng cho đến cả tiếng cười tiếng khóc, đến cả làm
tình cũng phải căn giờ giấc theo lệnh trên, cắt
tóc, áo quần, đi đứng cái chi cũng phải đồng đều;
y hệt như đống gạch, đống gỗ cùng một kích thước
cân đo. Tất cả phải làm nên một đoàn, một lũ,
một thứ người đánh đống (mass man), người dưới phố mà ta
chỉ xem thấy có bề ngoài không cần biết đến những
cảm nghĩ tâm tình bên trong. Đó là sự
ghì bó con người lại đợt thú vật không cho
thoát lên đợt trên là nhân cách,
mà nhân cách cũng là tư riêng, tư
cách. Vì thế những công thể cỡ nhỏ giúp duy
trì cá tính như gia đình, đoàn hội
tư riêng đều bị chối bỏ hay ít ra coi thường. Khi
cá-thể-hóa cùng cực không nghĩ đến thống
nhất thì con người không còn những ràng
buộc, những thể chế nhỏ như gia đình, làng xã,
những hội đoàn, mà chỉ là những cá
nhân trơ trọi cô độc dễ trở nên mồi cho việc
đoàn lũ hóa được chính quyền trung ương điều động.
Đoàn lũ hóa là một lối thống nhất giả tạo. Thống
nhất chân thực vẫn để cá thể giữ tư cách
riêng, thống nhất giả tạo thì xóa bỏ tư
cách; đó không là thống nhất mà
là đồng nhất.
14. Đây là lý do sâu xa tại sao chuyên
chế coi thường gia đình, quốc gia, tôn giáo, chỉ
chú ý đến nhân loại, hay quốc tế. Nhưng đó
là những danh xưng hổ lốn vắng bóng mọi dị biệt nên
rất trừu tượng, trống rỗng, rất thuận lợi để gói ghém
ý đồ chuyên chế nhằm đồng nhất hóa con người.
Vì thế một đàng thì chủ nghĩa duy vật đả
phá cùng cực cá nhân chủ nghĩa nhưng đằng
khác lại đặt nền trên vật chất (trên kinh tế) tức
cũng cùng một nền móng như cá nhân chủ
nghĩa, nên thực sự chỉ là thêm nanh vuốt cho
óc chuyên chế ghì sâu con người lại trong đợt
khóm thể: cũng vâng theo cùng một nguyên
lý đồng nhất, tức nguyên lý áp dụng cho cả
sự vật lẫn cho người. Nó dễ dàng sản ra từng loạt người
đồng đều không phẩm tính, không nhân
cách, nó chống hẳn lại những con người trổi vượt, lấy tư
cách làm tôn chỉ, thường biểu lộ bằng sáng
tạo, sáng kiến, vì sáng kiến bao giờ cũng do
cá nhân. Làm nên con người đồng loạt
là đường lối vật hóa con người, càng đồng loạt
càng giống sự vật. Câu nói điển hình nhất do
Mặc Tử là Thượng Đồng: trên bảo sao dưới nghe vậy, tin
vậy. Trên bảo phải, mọi người dưới đều cho là phải, bảo
trái mọi người phải cho là trái. Đó
là cắt hoạn con người mất khả năng đặc trưng con người là
óc tự phân biệt phải trái. Người ta tạm giữ khẩu
hiệu đó cho nhà binh, vì đấy là phạm vi
võ lực lấy cưỡng hành làm tôn chỉ, cần tạm
theo như trong thời hồng hoang lúc chưa vươn lên đến đợt
nhân linh ư vạn vật là cá tính, là
tinh thần, không cần đến võ lực nữa.
IV. CÁ TÍNH.
15. Muốn lên đợt này con đường phải đi là hiện thực
cá tính mà tôn chỉ mới thoạt xem cũng giống
như cá thể nhưng xét kỹ sẽ thấy nó rất
khác. Trước hết nó tiếp nối giai đoạn cá thể,
nên cũng đề cao ba chữ thận kỳ độc. Câu này
có hai nghĩa:
* Một là cần chú ý thận trọng ngay lúc
không ai thấy mình. Đây chỉ là nghĩa
vòng ngoài đã bị Hán Nho kéo hẳn về
phía luân lý khắc nghị.
16. * Nghĩa thứ hai mới căn để đó là chú ý
đến cái độc nhất vô nhị nơi mình, ban riêng
cho mình, mình có bổn phận phát triển đến
cùng cực , coi đó như sứ mệnh. Để hiện thực sứ mệnh
đó thì cần thận độc: cần chú ý kéo
dài để đào sâu vào tâm hồn, nghe
ngóng những ao ước thầm kín, những khuynh hướng bền bỉ
nơi mình hầu tìm ra được cái hướng đi riêng
biệt mà trời đã ủy thác cho một mình
mình mà thôi, không ai có thể thay thế
được: nó là cái chi tư nội, mới mẻ, tự nhiên
theo nghĩa gốc là không do ước lệ hay cái chi sai
khiến điều động, mà đột khởi, độc sáng ngược hẳn với
cái gì của đoàn lũ do ngoại khởi ấn vào:
nó bó buộc, nó kìm hãm tự
ngoài. Đấy là lý do tại sao các vĩ
nhân, những nhà sáng tạo bao giờ cũng coi thường
những ước lệ, những công thức, thường xa lánh lũ
đông và do thế nhiều khi những thiên tài bị
coi như là lân bang với những kẻ khùng điên
lập dị. Những người như Lưu Linh trong Nhóm Trúc
Lâm Thất Hiền: ngày Tết treo quần xà loỏng
lên thay cờ: là muốn nói lên cái
lòng khinh bỉ những ước định xã hội, những công lệ,
luân lý, giới truyền v.v... là cốt nhấn mạnh đến
khía cạnh tư riêng, đột khởi, tự nhiên ...
đúng theo chủ trương của Trang Lão: muốn thận kỳ độc trọn
vẹn nên đề cao tị thế (tránh đời). Tị thế là một
hình thái cùng cực của thận kỳ độc nó sai
vì quên luật chí trung hòa là
có vào cùng cực thì mới ra cùng cực
được, ra cùng cực là dấu hiệu đã vào
cùng cực.
17. Cho nên thận kỳ độc kiểu tị thế la thái quá,
mà thái quá đầu này lại gặp thái
quá đầu kia: nên tránh hùm phải hạm. Muốn
tránh chuyên chế cuối cùng bắt tay chuyên chế
lúc nào không hay. Đó là luật
tâm lý rất tế vi, ít người tránh được. Muốn
tránh đoàn lũ đồng đều lại bật sang thái
quá đối ngược là lập dị. Đó gọi là luật
"mạnh chống mạnh chấp" và rất khó nhìn ra,
nên có những trí khôn đặc biệt như Lão
Trang cũng vô tình để lại trong lịch sử văn hóa
Trung Hoa một sự mỉa mai đồ sộ với hai chữ Hoàng Lão.
Hoàng đây là Hoàng Đế tổ sư du mục
chuyên chế khác xa Lão Trang đề cao thiên
nhiên đột khởi tự do cùng tột. Thật là ở hai cực
trái ngược. Kết quả là Lão ngã vào
tay Hoàng Đế tổ sư của chuyên chế pháp gia, diễn
lại cái trò thường tình của con người mạnh chống
mạnh chấp, đâu đâu cũng xảy ra. Tây phương có
câu phương ngôn "Abysus abysum invocat", hố thẳm bên
này gọi đến hố thẳm bên kia, hai bờ thái cực trở
nên liền ngõ: les extrémités se touchent.
Muốn thoát tay Hoạn Thư hồn khóm lại bị Sở Khanh Ý
Hệ đưa trở lại với quỷ đồng nhất. J. J. Rousseau đề cao thiên
nhiên đột khởi thong dong cùng cực, nhưng đã đưa
đến mệnh lệnh tuyệt đối của Kant được coi là đồ đệ của Rousseau.
18. Đó là hệ quả của luật mạnh chống mạnh chấp. Cho
nên muốn thoát hồn khóm là một chuyện
mà tìm ra đường lối hiệu nghiệm là chuyện
khác. Phải sao giữ được cả hai . Phải sao đạt được như cây
đàn độc huyền của Việt tộc hiện thực được cách kỳ lạ
tính chất nhất đa: một mà nhiều; chỉ một dây nhưng
lại làm nảy ra muôn điệu. Bí thuật ở tại dị biệt
không căn cứ trên số dây, tức những dị biệt hiện
hình nhưng trên những cái rất tế vi, vô
hình nên dị biệt còn nhiều hơn ở những đàn
có nhiều dây nhiều phiếm. Ở dương cầm chẳng hạn tự
đô đến rê chỉ có hai độ chứ ở đàn độc huyền
thì nói được là có đến 9 coma hay cả 27
coma ! Nghĩa là sự khác biệt nhiều đến độ trở
thành liên tục không còn những cung bậc phải
bước để đi sang độ khác. Nếu muốn tìm một câu để
công thức hóa những cái dị biệt cùng cực
mà lại được thống nhất cũng cùng cực đó thì
chính là câu Việt Nho rằng "quân tử
hòa nhi bất đồng" = "quân tử hòa mà
không đồng". "Hòa nhi" chỉ phần ngoài như một số
công thức, ước lệ, cần phải theo phải hòa, vì
chúng cần cho cuộc sống chung, khỏi phải lý lẽ chi hết.
Nếu bên Anh (xưa) lái xe tránh bên tả
thì cứ tránh bên tả: cứ hòa nhi, còn
bên Pháp tránh bên mặt cũng phải hòa
nhi: không cần tìm lý lẽ. Nhưng chỉ đến đấy
thì phải dừng lại để mà bất đồng, đặng có đất rộng
cho sự thành tựu cái đặc biệt tư riêng của
mình.
19. Thí dụ Lễ Gia Tiên: đại chúng cúng
ông bà để cầu lợi lộc tư riêng, mà người
quân tử có thể "hòa nhi" là cũng cúng
tế như ai, nhưng bất đồng được biểu lộ bằng cúng tế không
vì lợi, mà cốt chỉ để kính trọng cái
nhân tính con người. Biết bao thí dụ khác
có thể đưa ra: chúng làm nên một cuộc sống
"lưỡng nghi" vừa thích nghi với những cái chung chung của
đại chúng, vừa thích nghi với những cái đặc trưng
của riêng mình. Một đàng là dân của
một nước phải tuân theo luật chung trong nước. Nhưng đàng
khác là nhân phải có tư cách
riêng biệt. Đó là lối sống gọi là "lưỡng
hành", có khả năng hội nhập được cái lợi ở cả hai
đợt: cả cái tổng quan được nâng lên hàng
thống nhất, cả cái chi li dị biệt đều được hội nhập tức
là thâu nhận và biến cải.
20. Ở đây là hội nhập được tính chất kết
đoàn của giai đoạn khóm thể, để biến đoàn lũ trở
nên công thể. Ở đoàn lũ cá thể bị nuốt
trôi trong đoàn lũ. Còn ở công thể thì
mỗi cá thể là một thành viên vẫn được giữ
phần cốt của tính chất tư riêng mình. Sự giữ
này có cái lợi của giai đoạn cá thể
là đề cao những gì tư riêng căn bản hơn hết
làm nên con người có nhận thức. Vì thế
lúc nào con người nhận thức ra được cái tư
riêng thì cũng là nhận thức ra được nhân
cách bị nuốt trôi. Sự nuốt trôi này được biểu
lộ dưới hình thái man rợ. Ở giai đoạn khóm thể
là những đền đài khổng lồ như Kim Tự Tháp,
Angkor... rút hết sinh lực toàn dân: mục
đích tối hậu của nó chỉ là duy trì
cái ngã của một người là Vua Thần. Điều đó
nói lên sự nghèo nàn biết bao của quan niệm
nọ: cả nước vất vả mà chỉ duy trì được có một
người. Vì thế đó là dấu hiệu của sự giết người.
21. Ở giai đoạn cá thể thì cái hại của nó
là ý hệ, khi ý hệ được hiện thực cũng rút
hết không những tiền tài vật dụng mà luôn cả
ý, tình, chí con người, bắt toàn dân
phải vâng theo cái ngã của kẻ thống trị.
Thành ra cũng trói buộc con người lại đợt cưỡng
hành. Cùng lắm mới là lợi hành tức chưa
thoát được vòng ngoại khởi nên cũng còn
là sự nghèo nàn, sự đồng điệu: thiếu hẳn phong
phú tính là dấu hiệu của vô biên
tính vốn gắn liền với sức sống, vốn đầy sáng tạo.
Sáng tạo chỉ được phát triển mạnh ở đợt an hành,
vì nó là tác động tự nội, tự do có
sức nuôi dưỡng cá tính con người, giúp con
người toàn diện có khả năng nhìn ra và hiện
thực vô vàn cái dị biệt. Đó chính
là cái làm nên tư cách, nhân
cách, cá tính. Con người khác con vật ở chỗ
nhận ra và hiện thực những dị biệt càng nhiều càng
vi tế thì càng trở nên linh thiêng. Chỗ những
người phàm tục không thấy chi khác biệt, thì
người đạt thân thấy vô số, y như trong những ngành
riêng khác người chuyên môn thấy vô số
dị biệt mà thường nhân không hề để ý.
Chính những cái tế vi đó làm nên
cõi tâm linh. Tâm với linh là một, cả hai đều
giống thần tức vô phương nghĩa là quá tế vi đến độ
không cần nơi chốn riêng để ở, vì nơi chốn thuộc
không gian lượng số, thần vượt lên trên rồi khỏi cần
đến chốn nơi vì vậy mà không đâu không
ở. Cho nên sức dung thông thâu nhận vô
biên. "Tri Thường dung" là thế. (Tri được Thường hằng
thì tất nhiên dung thông)
22. Đó chẳng qua là sự áp dụng luật chí
trung hòa "nội hàm càng nhỏ ngoại hàm
càng to". Muốn bao quát nhiều, muốn hội nhập nhiều
thì một ý niệm phải róc bớt đi những cái
rườm rà những yếu tố bám theo: càng bớt thì
càng hợp cho nhiều loại. Áp dụng luật đó
vào tâm lý thì tâm hồn phải xả bỏ
các tư ý tư dục, xả bỏ được nhiều, sức bao quát sẽ
lớn lên theo đó. Xả bỏ đến cùng cực đến độ trống
trơn thì gọi là tâm linh: sẽ bao trùm cả vũ
trụ. Vì thế tâm linh cũng gọi là "vũ trụ chi
tâm". Đó là lối nói để chỉ phổ biến
tính mà không thiếu cụ thể tính đi
kèm. Tức là phổ biến tính có thực chứ
không là thứ phổ quát lý trí
nó trừu tượng: chỉ có trong tưởng tượng. Thí dụ
như ý niệm về nhân loại ngày nay chỉ là một
ý niệm phổ quát trừu tượng trống rỗng đang khi chữ
thiên hạ của Việt Nho cũng gọi là "tứ hải giai huynh đệ"
có nội dung thực sự, nên trong đó không
có phân chia giai cấp, vì ai cũng tham dự
nhân tính như nhau.
23. Áp dụng vào xã hội là
sự vắng bóng độc quyền độc chuyên vốn gắn với đại đồng,
đồng nhất. Ở đây là thống nhất là cái
không diệt trừ những dị biệt; mọi cá thể đều có chỗ
phát triển cái tư riêng của mình. Vì
vậy đoàn thể đó không là đoàn lũ
mà là công thể với các thành
viên sống như một phần cơ thể không mất tư cách
riêng. Gia đình làng xã là những
công thể vừa tầm tay của mọi người, vậy mà tất cả vẫn qui
vào quê nước. Chính sự duy trì cái tư
riêng trong cái chung đó làm nên những
công thể. Trong công thể mỗi cá thể là một
thành viên: có những suy tưởng cảm nghĩ tư
riêng không hề bị cấm đoán. Ở trong một xã
hội mà thành viên không có được quyền
tin tưởng, tự do ngôn luận, đi lại thì đấy là
đoàn lũ. Chính những suy tư, nói, nghĩ làm
nên cái tinh hoa cao nhất của con người, làm
nên cái cá tính khác hẳn đoàn
vật. Cấm đoán những cái tư riêng đó
thì có khác chi đoàn vật. Nó chỉ
còn là đoàn lũ do nhà chuyên chế
cưỡng ép thiếu tự tình. Trong đoàn thể sự thống
nhất có được là do tâm tình yêu
nhà yêu nước. Nhờ vậy nó duy trì được cả
hai, vừa yêu nhà vừa yêu nước như ở đợt hồn
khóm, vừa phát triển được cá tính đặc trưng
của mình như ở đợt cá nhân, nhưng lại cao hơn cả
hai; thay vì đoàn lũ với hồn khóm thì ra
đoàn thể hay công thể với hồn thần. Đó là
nhờ đợt cá tính xây trên tâm linh cũng
gọi là cái tâm trống rỗng.
24. Nếu xem vào cách phân tích theo kiểu
triết ta sẽ thấy trong đợt cá tính có sự ngược
chiều ở tại có mà như không, không mà
lại có: có đoàn tụ thành công thể,
nhưng lại như không, tức công thể không cản trở việc
"thận kỳ độc" là việc phát huy đến cùng khá
thể của mình. Đó là điều nếu được cơ cấu
hóa sẽ thành ra hai hình tròn vuông
ngược chiều: tròn chỉ vòng đồng tâm đi vào
nhỏ cùng cực, nhỏ đến chỗ vô thanh vô xú,
nhưng lúc tỏa ra lại bao gồm hết mọi dị biệt chỉ bằng các
cái vuông bốn góc bánh chưng.
Trong tâm lý con đường ngược chiều này thường xuất
hiện tự quãng 40 đến 50 tuổi Mỹ gọi là climacteric, khi
ấy con người bắt đầu chán dần những cái bên
ngoài, để chú tâm đến tâm linh nội tại. Người
nào nghe được tiếng lòng để đi theo như vậy thì
chính là lúc từ giã giai đoạn cá thể
để lên tính thể tâm linh.
25. Triết Việt Nho đã phát triển hai hình
tròn vuông thành ngũ hành và Lạc Thư
để giúp con người đi đến chỗ nhận ra mình là vũ
trụ chi tâm, vì khi người nào hiện thực được sẽ cảm
thấy vũ trụ chính là tâm mình. Nói cụ
thể là cảm thấy mình không bó kết với một
cá thể nào đến độ độc hữu, đến độ phải trừ khử các
dị biệt khác, nhưng là sự chú ý khai mở
tâm thức ra rộng cùng cực đến độ có thể nói
trong vũ trụ không việc nào là không
liên can với mình, khiến mình thấy có nghĩa
vụ. Còn nếu rửng rưng: ai khổ ai đói mặc bay, tệ hơn nữa
lại còn ghét bỏ thù oán căm hờn là
tỏ ra còn đang bò lết dưới độ cá nhân
ích kỷ. Ai mắc chứng đó tất không nhìn ra
mối liên hệ nằm ngầm giữa người nọ với người kia. Mối liên
hệ nằm ngầm đó ví như mạch máu chuyên chở
chất nuôi dưỡng đến từng phần thân thể. Không cảm
thức được thì con người trở nên như gỗ mục không
còn tình người. Ta hãy tìm ra căn do chứng
bệnh đó.
V. CĂN NGUYÊN SIÊU HÌNH.
26. Cái căn cớ sâu xa có tính cách
siêu hình của căn bệnh cá nhân ích kỷ
là vũ trụ quan tĩnh coi trời là trời, đất là đất,
xa lạ với người: cả ba không làm nên một thân
thể. Vậy phải thay vào đó bằng thuyết Tam Tài. Tam
Tài là sự phân tích bao la của thuyết "vạn
vật nhất thể" nó làm nên một thứ chân trời
rộng lớn khiến người hút thở trong đó lâu
ngày trở nên nhân hậu hơn, sâu đặm hơn
tình người hơn, y như câu "ở bầu thì tròn ở
ống thì dài", hoặc như người ở bên hoa lâu
ngày thấm nhuần hương hoa tỏa ra thơm ngát. Người
nuôi dưỡng vũ trụ quan nhất thể cũng vậy, lâu ngày
coi mọi người như cùng thân thể với mình nên
dễ dàng yêu thương tương trợ.
Tóm lại khi con người mới thoát khỏi vật tính
thường đi theo luật đồng nhất với cái nhìn khái
quát quá đã đến độ chưa nhận hẳn ra mình
là một thực thể biệt lập. Dần dà tiến bộ thì nhận
ra mình biệt lập với các vật thể và sự vật cũng
có nhiều khác biệt cần phân tích,
càng phân tích càng tiến bộ. Cho tới bậc tột
cùng trong khoa vi thể là phân tích đến
nguyên tử của sự vật. Trong triết ở lì lại đợt phân
tích sẽ là ý hệ là cá nhân
ích kỷ .
Vì thế phân tích rồi còn phải tiến
thêm đến thống nhất hay đúng hơn phân tích
đích thực dẫn đường đến tổng hợp. Tuy nhiên cần phân
ra hai thứ tổng hợp, một thứ xây trên ý niệm trừu
tượng thì chỉ đạt cái "nhân loại" trừu tượng thiếu
nội dung tình người: chỉ có cưỡng đoạt làm
nghèo nàn làm trút hết mọi vẻ phong
phú. Phải là thống nhất xây trên tâm
linh mới là nền thống nhất trung thực, nó rất phong
phú tình người cũng như bao dung muôn dị biệt. Nền
thống nhất này có tính cách vô
biên nên gọi là phổ biến. Con người còn phải
dày công mới đạt được, nhưng lý tưởng là
đó.
V. SỐNG NHƯ CHƠI
ĐỊNH NGHĨA CHƠI
1. Ta thường hiểu chơi là
không làm gì. Đó là nghĩa thấp nhất.
Chơi cũng hiểu là giải trí để làm việc tốt hơn.
Nghĩa này cũng còn tiêu cực tuy nhiên
đã cần thiết vì nó làm nên nhịp
âm đối với làm là nhịp dương. Sự thực chơi
có nghĩa bao la và rất tích cực gồm cả văn
hóa và siêu linh. Ta quen nói chơi
đàn, chơi nhạc, chơi cờ, chơi chữ, nó chơi
tôi...những chữ chơi đó nói lên sự bao la lớn
rộng cũng như nét vi tế của chữ chơi, mà sau đây ta
sẽ xét qua.
2. Trước hết chơi là một
biểu lộ của sự sống có tính cách nội khởi, tự
động, phổ biến. Chơi không những có ở nơi người, chơi
còn có cả trong con vật. Hãy xem quanh ta
nào mèo, nào chó, ôi thôi
nó chơi, nó giỡn tưng bừng. Bò, heo, gà,
vịt đều chơi cả. Thế là ta biết chơi gắn liền với sống, sống
càng mạnh chơi càng nhiều.
3. Chơi còn là một biểu lộ rất sớm;
nơi con người nó xuất hiện ít tháng sau khi sinh.
Chơi choán trọn mấy năm đầu, chưa làm cái chi
khác nhưng đã có chăng chỉ có chơi. Chơi
chiếm hầu trọn quãng sống đầy hạnh phúc nhất, đầy tăng
trưởng nhất.
4. Trong loài người chơi cũng xuất hiện trước
cả văn hóa. Văn hóa chỉ đến sau để uốn nắn xếp đặt đặng
"in dấu" con người vào sự chơi đã có trước, nhờ
đó chơi trở nên một biểu lộ của văn hóa. Lịch sử
văn hóa Việt Nam mở đầu bằng hình ảnh cuộc chơi tưng
bừng, bao la như vũ trụ: gồm cả thiên địa vạn vật cùng
chơi như được ghi trên mặt trống. Suy xét cho thâm
sâu ta sẽ thấy rằng đó phải là mẫu mực của mọi nền
văn hóa chính tông, tức văn hóa phải mở đầu
bằng chơi, kết hậu cũng bằng chơi: sống như chơi, chết cũng như chơi.
Với con người chơi là cứu cánh ; cho nên hầu hết
văn hóa loài người đều có quan niệm gần hay xa với
câu "hóa nhi đa hí lộng: trẻ tạo hóa chơi
rất nhiều: đa hí lộng mà ta sẽ thấy đó là
quan niệm giải nghĩa ổn hơn hết cuộc sinh sinh hóa hóa
bất tận của vũ trụ càn khôn. Như vậy chơi là một
tác động cao nhất của cuộc sống, có tính
cách linh thiêng hơn hết. Chơi không bị ràng
buộc vào những mục đích bé nhỏ, những đối tượng
nhất định: chơi là chơi. Tạo hóa không làm
chi khác mà chỉ có chơi: hóa nhi đa
hí lộng, chơi như trẻ con chơi: không nhằm đạt cái
chi bên ngoài. Cho nên ở đợt cao nhất, chơi
không nhằm mục tiêu nào khác ngoài
chơi, nghĩa là nó không cần hướng đến mục
đích ngoài nó, nó là một động
tác tự tại, không cần động cơ ngoài thúc
đẩy. Chơi được như vậy có nghĩa là đã sống được
cuộc sống no tròn, không phải tìm kiếm chi
khác nữa: chơi đã có đủ hết nơi nó.
5. Bởi vậy chơi được xem là sự tràn bờ
của sức sống và hạnh phúc. Chính vì
thế mà trẻ con chơi nhiều hơn người lớn. Sinh lực chúng
còn đang trong đà tăng vọt, tràn ra khỏi
biên cương cơ phận: thân xác trở nên
quá hẹp không đủ chỗ cho sức sống vẫy vùng
nên phải mở mang thêm bờ cõi thân thể bằng
chơi.
Chính sự tràn bờ, chính sự tự
tại không nhằm mục đích nọ đưa chơi vào cõi
thần tiên vì: Thần vô phương, chơi cũng không
bị trói buộc vào biên cương hay một mục đích
nhất định, nên nó giáp giới với vô
biên. Vô biên chính là Thần. Chơi cũng
chính là thần vì nó không có
mốc giới, nó biểu lộ những nét linh thiêng của
chân, thiện, mỹ như sức căng thẳng, sự năng động, nhịp
nhàng, hòa hợp, cân đối, đa diện, là những
nét vi tế của sự đẹp.
6. Thời cổ xưa chơi thường nằm liền ngõ với
tế tự, một tác động nền tảng hơn hết của con người, đặt con
người vào mối liên hệ chặt chẽ với linh thiêng,
nên là một tác động cao cả hơn hết, vì thiết
lập liên lạc với vô biên, tức với cái chi
không giới mốc, không bị hạn cục. Ở buổi bình minh
nhân loại, ta thấy chơi đi cùng tế tự là do lẽ
đó.. Thời ấy các cuộc tế tự đều có múa,
có ca, bởi ca múa chính là cuộc chơi
đã được cơ cấu hóa. Đấy là lý do tại sao
nhiều triết gia đã đồng hóa việc chơi với tế tự.
Hình ảnh trên mặt trống đồng muốn nói là
cuộc tế tự hay một cuộc chơi cũng được, vì tính chất bao
la phổ biến của chơi và tế tự như nhau, đích cùng
cũng như nhau: đều đặt con người liên hệ với vũ trụ tức là
với linh thiêng. Cho nên trong các xã hội cổ
đại có vô số cuộc chơi đặt liền với các cuộc lễ.
Nhiều nhất và giữ được lâu hơn hết là nơi Việt tộc:
mở đầu là tế tự, tiếp nối là chơi. Nói được
các cuộc chơi đó nhất là các hội Xuân
chính là sự kéo dài của cuộc tế tự.
Ông Paul Mus gọi dân Việt là một dân gồm
toàn những tay chơi: un peuple de joueurs. Đó là
câu nói khen ngợi cùng cực; mọi việc đã được
đẩy đến độ chơi, có nghĩa là đã đẩy đến độ tế tự:
il n' agit pas, il officie: ông nói: "họ không
còn làm nữa, họ tế tự". Paul Mus nói thế vì
tính cách thành khẩn của việc, nó
hút trọn bầu linh lực không để vương vãi đi
đâu chút nào.
7. Trên đã nói chơi là tác động
không nhằm mục tiêu. Tại sao có chỗ lại nói
đến mục tiêu, nói đến đích cùng của chơi.
Thưa đích cùng là nối với vô biên
thì cũng như không có mục tiêu, tức
tiêu điểm vượt ra khỏi tai mắt, không còn gọi
là mục đích được nữa. Vì mục đích là
cái đích được mắt nhắm tới. Còn đây tận
cùng là cái chi vô biên nên vượt
bờ cõi của tai mắt, của giác quan, và đó
là bản chất của cuộc chơi trung thực, nó cũng giống tế tự
mà Việt Nho đã nói là "tế tự bất kỳ" tế tự
trung thực không xin gì hết (bất kỳ) chỉ cốt cho
lòng bay lên. Vì vậy xin xỏ không còn
là tế trung thực. Xin cái nọ cầu cái kia là
tự cột mình vào những cái bé nho có
mốc giới hạn hẹp, đang khi tế tự chân thực phải được như chơi
chân thực, là phải nâng tâm hồn lên
không cho phép nhằm mục tiêu gì khác
ngoài mình, có vậy mới giải thoát được
tâm hồn ra khỏi sự thằng thúc của những cái
bé nhỏ để hồn bay lượn trong cõi vô biên; cứu
cánh cuộc đời là đó. Vậy nên khi nói
phải sống cái sống như chơi cũng chính là
nói phải biến cuộc sống trở nên một cuộc tế tự thường
xuyên và trường kỳ. Tuy nhiên những câu
nói đó rất dễ gây hiểu lầm là vì tất
cả sống, tế, chơi đều đã đi trật khỏi đường thông với
vô biên để bị mắc kẹt vào những ngõ bí
không lối thoát. Vì thế cần gỡ lần ra khỏi sự rối
ren nọ, cần nghiên cứu riêng về sự trật đường của cuộc
chơi. Đầu trước hết là sự phá rối cuộc chơi.
NHỮNG KẺ PHÁ RỐI CUỘC CHƠI.
....................
VI.TỪ LAO ĐỘNG TỚI AN VI
* Bài này đã in như phụ trương
trong quyển HỒN NƯỚC. Nay đưa vào đây mới là
chính chỗ.
A. NGUỒN GỐC TRIẾT LÝ LAO ĐỘNG.
1. Tháng giêng ăn tết
ở nhà
Tháng hai cờ bạc,
tháng ba hội hè ..
Đó là câu đã làm
biết bao người Việt trước đây bực dọc thấy quá nhiều
thì giờ bị tiêu phí vào việc ăn chơi hội
hè, đang khi các nước văn minh giàu hơn
mình gấp cả trăm lần còn làm việc trối chết, tết
cũng chỉ có một hai ngày, thế mà dân
mình túng rớt cục mồng tơi đòi ăn tết đứt
đuôi đi một tháng. Vậy chưa cho là đủ, còn
đòi thêm hai tháng nữa mới kinh khủng. Mất nước
cũng đáng kiếp.
2. Thế là từ đấy nổi lên cuộc giương cờ
trống đi rước văn minh Tây phương cùng với triết lý
lao động của họ đưa về cho ngự trị trong nước; hậu quả là ba
tháng tết rút lại còn có ba ngày,
mà nhiều khi còn bị xén bớt. Liệu rồi với
đà làm việc đó chúng ta có đuổi kịp
Tây Âu chăng? Để tìm câu đáp hôm
nay chúng ta đem vấn đề ra cứu xét: tại sao lại có
cái vụ trái khoáy như trên: nước túng
mà tết lại dài với một chuỗi hội hè đình
đám.
3. Trước hết nên nhớ lại Tây Au mới
làm việc quần quật từ lúc có khoa học kỹ thuật.
Còn triết lý lao động lại đến muộn nữa, mới chừng một thế
kỷ nay. Từ đấy mới có đảng lao động, rồi lễ lao động và
lao động được đề cao cùng cực, đến độ giai cấp lao động được
trao phó cho sứ mạng cứu thế, nên đảng lao động đã
tận tình thực thi sứ mạng đến độ chỉ còn để lại có
việc thuộc chân tay như sản xuất đồ vật , có vậy mới
đáng kể là lao động. Văn học nghệ thuật muốn được tồn tại
cũng phải hô hào cổ võ cho việc thi đua sản xuất,
ca ngợi lao động mới xong. Ngoài ra ai còn dám
nói tới tình người tất bị lên án là
phản cách mạng, phản sản xuất.
4. Đó là sự quá trớn dễ
dàng nhận thấy, nhưng có một điều không mấy ai thấy
là cái lý do gây nên phong trào
làm việc quần quật nọ. Vậy nguyên ủy sâu xa ở tại
triết lý cổ điển đã xao lãng việc đề cao lao động
thì chớ, lại còn coi việc làm là
hình phạt hay như cái chi hèn hạ, chỉ đáng
dành cho nô lệ (gọi là servile). Aristotle cho việc
lao tác bất xứng với người tự do . Cũng vì đó
triết lý đã không tìm cách phá
chế độ nô lệ, còn bào chữa cho là cần thiết
để xã hội tồn tại. Vì xã hội mà thiếu lao
động thì sống sao nổi, mà ai lao động cho đây nếu
không có nô lệ. Đấy quả là một tang chứng về
vụ triết học đã phản bội con người vốn mang trong xương tủy
tính chất tác hành. Vậy mà mãi đến
đời nay các triết học gia chưa hẳn rút chân ra khỏi
câu tuyên bố đầy ô nhục nọ của Plato, Aristotle.
Đó là dấu chứng tỏ triết học đã đặt hướng lầm,
nên không thấy rất nhiều điều thiết yếu cho con người trong
đó có sự coi thường lao động, vì thế trải qua bao
đời, lao động vẫn bị khinh rẻ, đó là lý do
sâu xa nhất đã gây nên cuộc phản động đề cao
lao động như vừa nói trên.
5. Nhưng rồi "mạnh chống mạnh chấp"; cái
gì do phản động thế nào cũng gây nên sự mất
quân bình là cái sẽ dẫn đến chỗ cắt hoạn con
người, bắt con người làm quá nhiều về chân tay lao
lực, không để thì giờ phát triển những khả năng về
tình và chí còn cần thiết gấp bội cho sự
lớn mạnh của con người trung thực. Bởi nhà nước chiếm đoạt hết
quyền điều lý thì đã là tước đoạt
quyền định đoạn phác họa chương trình của tư nhân
cả đến những chi tiết lặt vặt cũng xen vào với chính
sách "làm hết" (tout faire) biến cá nhân
thành cái ruột đinh ốc, một cái bánh xe chỉ
biết máy động do sức đẩy bên ngoài. Đã vậy
mục tiêu cũng bị đặt bên ngoài con người như
làm để có thêm tiền, làm để cho nước giầu
mạnh, hay đi giải phóng chứ không chú ý đến
nhu yếu con người thực đang sống ở đây và bây giờ.
Đó là những cái bên ngoài con người
gọi là thành công được nhằm như cứu cánh,
không còn tiêu điểm để biết đến đâu là
đủ, là "tri túc". Thế là biến con người
thành loài kiến, suốt đời phải tha mồi để chất đống, tha
hoài tha hủy, không bao giờ được ngửa mặt lên ngắm
trời đất với muôn hoa đua nở chứ đừng nói đến việc
siêu lên cõi tâm linh là chiều
kích đích thực của của con người. Muốn thế ta cần phải đi
tìm một nền triết khác thay vào cả hai nền triết
Tây Âu; cổ điển thì khinh việc, còn nay chỉ
biết có việc sản xuất. Cần một nền triết lý cân đối
đầy đủ cho con người lưỡng thê.
B.HAM CHƠI VÌ CÓ TRIẾT LÝ
TÁC HÀNH.
6. Điều đó chỉ có thể tìm ra
được trong những miền có triết lý hành động
từ đầu, tự cơ cấu. Và đó là trường hợp Việt Nho
khi định nghĩa người như những tác nhân, xuất hiện theo
cung cách của Bàn Cổ, cái gì cũng tự
làm lấy hết; từ việc xếp đặt trời đất, âm dương, cho đến
núi sông, cả con người nữa cũng tự làm ra, sau
này con cháu đều bắt chước. Ngay đàn bà
mà có thèm kể đến phận liễu yếu đào tơ
đâu – cũng ra tay dọc ngang trời đất, cũng dám đội
đá vá trời ! Dễ có mấy tay !
7. Nữ nhi mà làm những việc có
tầm vóc vũ trụ! Chả trách sau này sinh ra
toàn những tay thánh tổ của tác hành như ba
vị thánh quan thầy lao động của Việt Nho cổ đại coi là
Uyên Công, Mẫn Công, Đạt Công (được thờ ở đền
Đào Xá Phú Thọ). Rồi đến trai thì
hùng đã đành, mà cả gái cũng đảm
nữa, nên khi lấy chồng thì kêu là đi
"gánh vác", hiểu là "đi gánh giang sơn
nhà chồng". Lại nổi máu con cháu Nữ Oa lên
nữa rồi.
Người ta gánh cá gánh rau
thôi chứ, đây đòi gánh sông gánh
núi, tức những công việc có tầm vóc vũ trụ
vậy. Nói theo công thức của Nho thì ba vị
công trên là Tam Tài.
8. Chữ Tài viết bằng bộ thủ (tài
gãy ) hàm ý động tự. Thế
có nghĩa là con người được quan niệm như một tác
nhân, mình đầy nhóc những động tự là động
tự. Trên đời này không thể tìm đâu được
một triết lý hành động uyên nguyên đồ sộ đến
như thế. Theo triết lý ấy chỉ có việc làm mới
có giá trị, nên các vua huyền sử của Việt
Nho không xuất hiện từ dòng máu như sinh ra bởi
thần thánh nào, mà chỉ lấy toàn tên
từ một thành tựu, một cuộc phát minh nào đó:
Toại nhân phát minh ra lửa
Phục Hi thuần phục súc vật
Thần Nông thuần phục lúa
Hùng Vương thuần phục tinh thần
Bà Nành, Bà Giâu
là những người đã thuần phục cây đỗ nành,
cây dâu...
Kể ra chẳng xiết. Rõ rệt là
không hề có một dấu hiệu nào coi khinh việc
làm, trái lại việc làm được đề cao từ trong xương
tủy, đến nỗi kẻ sĩ thường mang tiếng là dài lưng tốn vải,
vậy mà khi chết cũng phải chôn theo một biểu hiệu
việc làm đó là lưỡi cày. Ông vua cũng
phải đi cày, ít ra một cách tượng trưng;
cày trên ruộng tịch điền ba luống. Vua Lê
Hoàn tự cầy cấy trọn ruộng tịch điền...
9. Tóm lại không những cơ cấu Việt Nho
là tác hành, đến nỗi đạo được gọi là Ngũ
Hành, mà cả đến sơ nguyên tượng, và điển
hình cũng là những tác nhân, những ông
chống trời, ném cát, tát biển tức những việc
có tầm vóc vũ trụ.
Cho nên nếu hiểu thấu được triết lý
tác hành chân thực thì phải nhằm phát
triển con người đến toàn diện mênh mông như vũ trụ.
Nay đòi giản lược vào những vật hữu hình, độc
chuyên có đợt sản xuất. Đó là san phẳng theo
nguyên lý đồng nhất (A=A) giản lược con người vào
nhu yếu duy nhất là ăn. Không biết chi tới "ở đời"
có chiều kích vô biên rộng như vũ trụ, khiến
con người có thể tham dự cùng trời đất. Đó
là chỗ giải nghĩa những cuộc hội hè đình
đám mà ta cần tìm hiểu thêm.
C.TẾT LÀ GÌ?
10. Muốn hiểu được tầm quan trọng của Tết cần nhớ
lại với Việt Nho thì siêu hình là thời gian
và tình cảm. Cả hai đều vô hình nhưng lại
có thực; đó chính là chất liệu làm
nên con người, tràn ngập toàn thể con người dưới
tên bao quát là tình, tâm tình.
Đó là then chốt của con người, con người cần phải
"tùy thời". Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai", vì
tùy thời cũng chính là sống theo tình theo
tính, tức là đạo. Đó là những việc
không thể bỏ dù một giây. Nhưng có những
lúc cần trọng thể hóa: như những thời điểm khởi đầu
mùa, đầu năm Nho gọi là tiết, ta đọc là tết.
Đó là ngành ngọn của chữ thời.
Còn ngành tình
thì ta thấy Nữ thần mộc săn sóc cho mối tình nảy
nở qua thể chế gia đình: rồi nhiều gia đình làm
nên làng xã. Hàng ngày sống
tình gia đình, nhưng lâu lâu vào những
khởi điểm cũng cần sống theo chiều kích toàn thể của
mình, cái sống của công thể. Sống đầy đủ nhất tự ăn
uống, chơi đùa, cho tới ca hát, tế tự. Đấy là
lý do thâm sâu của các cuộc hội hè
đình đám kéo dài: đó là sự
tác động của một nền siêu hình trung thực hơn hết,
đáng được coi là khôn sáng thông giỏi
hơn cả. Vua Hùng Vương chỉ truyền ngôi cho công tử
Lang Liêu vì đã biết trình bầy việc ăn uống
ngày tết như hình trời đất, và dân
chúng đã thấu hiểu triết lý đó nên
kêu là vua Tiết Liệu: tiếng này vừa có nghĩa
món ăn ngày tết, mà cũng hàm ý biết
lo liệu đúng tiết điệu của đất, trời, người.
Như thế, tết hay hội hè
đình đám chính là những phút linh
thiêng mà con người dùng để sống hòa điệu
với nhịp vũ trụ của hóa công được quan niệm như trẻ thơ ca
múa "hóa nhi đa hí lộng", để cho đúng
câu "thiên nhân tương dữ" trời người cùng tham
dự. Tham dự chi? Thưa cụ thể là tham dự cùng một tiết
nhịp. Vì thế tết cũng kêu là tiết: có bao
nhiêu tết là có bấy nhiêu tiết. Mỗi tết trở
nên cơ hội cho con người sống đời sống của Đại Ngã
Tâm Linh, sống hòa mình vào nhịp vũ trụ, để
con người sống những giây phút an hành vượt hẳn ra
ngoài vòng danh lợi của hai đợt cưỡng hành lợi
hành. Chỉ ở đợt an hành con người mới dễ sống thanh thản
trong bầu khí bao la của trời cùng đất.
11. Đây là lý do sâu thẳm
tại sao tết với những hội hè kèm theo được coi là
thiết yếu cho con người để phát triển những khả thể vô
biên của mình, là cái giúp con người
khỏi thiên lệch sang trời hay đất, tức làm nô lệ cho
những cái ngoài mình như tiền tài, quyền
quý. Đất biểu thị những gì bé nhỏ chỉ bằng những
góc cạnh (bốn phương) như những nhu cầu ăn uống, đó
là lối tác hành hiện ra hình thể có
tính cách thúc bách, nó trói
buộc con người vào vật thể, nếu không có những
lúc dành riêng để tâm hồn thoát
lên thì rồi sẽ bị trói chặt mãi vào
đất để cho hạ tầng kinh tế chỉ huy trọn vẹn; kết cục là con
người bị biến thành những dụng cụ sản xuất, những máy tự
động vô hồn, không còn nghĩ tới được thượng tầng,
đành trở nên những con người què quặt – vì
đánh mất toàn vẹn tính của mình gồm
không những hạ tầng như phải ăn, uống mà còn cả
thượng tầng tâm linh, thượng tầng văn hóa.
12. Vì thế thượng tầng cũng phải tác hành, nhưng
đi lối khác hạ tầng kinh tế vì nó là trời
tròn đầy viên mãn có thiếu chi đâu
mà phải lợi hành, nên có thể an hành
tức là hành bằng tiết nhịp: làm không phải
để được cái chi mà để triển diễn chiều kích
vô biên của con người. Triết lý chơi nằm ở chỗ
đó, ở chỗ hành không phải để được cái chi
cả. Đúng hơn là không nhằm những cái nhỏ
bé có thể trở thành mục tiêu, nhưng nhằm
thỏa mãn chiều kích vô biên nơi con người,
như để con người được tập dượt cho quen dần đặng vượt lên
cõi bao la bên ngoài lợi lộc để phát triển
sự toàn vẹn của mình.
13. Sự toàn vẹn bao gồm cả đức trời cả đức
đất. Về phương diện đức đất con người phải lao động sản xuất, phải
làm mà ăn. Tục ngữ quen nói: "tay có
làm thì hàm mới nhai". Nhưng con người không
chỉ có hàm mà còn nhiều cái
khác, mà bao la hơn cả là tâm, là
tình. Tình, tâm phải lớn bằng vũ trụ để trở
nên vũ trụ chi tâm. Nói kiểu khác là
đức của trời, và tới đây thì phải biết ăn chơi.
14. Chơi cũng gọi là ăn sao? Thưa rằng
tại sao không. Nếu ăn là để nuôi dưỡng xác
thân, thì chơi là để nuôi dưỡng cái
chiều kích vô biên của con người nghĩa là
những đức tính không thể đo lường bằng ích dụng,
thí dụ những mối tình cao thượng về yêu thương,
hòa bình, quảng đại, những khát mong hướng về
chân, thiện, mỹ, toàn là những đức tính
vô hình, nên thường bị coi như vô ích
nhưng khi nhìn con người toàn diện lại thấy cần biết mấy.
Vì thế mà trên đời chưa có cái hữu
ích nào đắt bằng những cái "vô ích":
một bức họa thời danh nhỏ có thể trả cả triệu dollars vẫn chưa
mua được là vì thế, đúng ra vì nó
vô giá. Vô giá vừa có nghĩa 'vô
ích" vừa có nghĩa là có giá vô
ngần. Đó là bằng chứng bất ngờ nói lên sự
cao trọng của những cái "vô ích". Vì hữu
ích là hạn cục vào một mục tiêu; cây
viết có ích để viết thì không ích cho
việc chỉ giờ. Đồng hồ có ích chỉ giờ thì vô
ích cho sự xê dịch.. mỗi sự hữu ích là một
hạn cục, không còn lối mở vào cõi vô
biên cho nên cần thiết phải có chơi để khỏi biến con
người thành một dụng cụ "có ích". Cần làm
sao cho con người mãi mãi là một thực thể
"vô ích" để có khả năng thông đạt với
cõi vô biên đã vượt xa khỏi bình diện
có ích với không có ích. Triết
lý chơi nằm trong đó, chơi tuy vô ích
mà lại rất phổ biến, ai cũng ham chơi, mà lý tưởng
là phải chơi.
15. Tuy nhiên đặt ra được một triết lý
chơi thật họa hiếm, nó đòi phải có hai điều; một
là phải có triết lý chữ thời biết coi trọng tiết
nhịp hai là phải có cảnh phong nhiêu phồn thịnh.
Trước hết hãy nói về chữ thời mà cụ thể là
tiết nhịp. Chơi mà thực đúng tiết thì phải được tổ
chức vào những đầu tiết nhịp y như hát múa đều cần
có nhịp nên ít ra phải theo được cung đầu và
cuối của câu nhạc. Ở những cung giữa có sao nhãng
hoặc bớt hay thêm một vài nốt nhạc cũng được, nhưng khi
đến đầu nhịp thì mọi tay chơi phải hòa vào để đạt
hòa âm. Vì thế mà thời xưa có niềm
tin rằng ca vũ là phương tiện để thông giao với quỉ thần.
16. Đó chẳng qua là niềm tin của thời
ma thuật, còn chính ra là để thông giao
cùng tiết nhịp trời đất. Đó là ý nghĩa tết.
Vì thế Việt Nho là miền có lệ ăn tết dài
nhất, thì cũng có thể coi là đạo đức nhất, tiến xa
nhất trên thang tiến hóa. Đó là điểm một.
Điểm hai cũng cần lưu ý đó là có nhiều tết
hơn cả bởi chưng tết là lễ, tức là lúc để
dành thời giờ cho việc thích nghi với tiết nhịp = hai chữ
nghi lễ là do đấy. Do quan niệm lưỡng thê: một tác
hành sản xuất cho thân xác, một an nghỉ cho
tâm hồn. Lưỡng nghi là phải thích nghi cả với dưới
lẫn với trên mới là triết theo nghĩa đầy đủ. Trong khi lao
tác có thể lạc nhịp nên cần phải có tết để
cho hợp tiết. Vì thế hai tết to nhất nhằm vào hai
mùa Xuân Thu tức hai mùa của con ngời (trục
phân hàng ngang). Còn hai tết thuộc trục chí
là hàn thực và lễ lửa thì coi là
tùy thuộc theo quan niệm nhân chủ đặt nặng trục ngang (xem
"Triết Lý Cái Đình") Thế là xong cái
vụ tháng giêng ăn tết ở nhà. Còn
tháng hai sao? Chữ hai chỉ đất chỉ tiền tài, nên
đưa đạo chơi vào cho đừng quá bám vào tiền
tài là cái dễ chạy dễ thay chủ. Tuy nhiên
vì cờ bạc dễ sa đọa nên xin đổi ra tập nhạc, hoặc học dịch
hay tu luyện chi đó.
D.THÁNG BA HỘI HÈ.
17. Tháng ba ai cũng hiểu là
tháng thứ ba sau tháng một và hai mà kỳ
thực còn hàm ý vài ba, tức là nền
minh triết thâm sâu chỉ con người đại ngã
tâm linh gồm ba trời hai đất. "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài", mà ngọn của tâm là tình.
Tình mẹ là mối tình bao la nhất trong cõi
người ta nên chỉ bằng nguyên lý mẹ, biểu thị bằng
các Nghi Mẫu, câu tháng tám giỗ cha
tháng ba giỗ mẹ nên được chở theo ý phổ biến
này. Như vậy nói tháng ba hội hè là
một cách buộc chơi vào với minh triết. Triết lý
của chơi nhằm đáp ứng hai nhu yếu thâm sâu của con
người; một là tiết nhịp như đã bàn trên.
18. Hai là thỏa thích mọi nhu yếu
toàn vẹn là điều cần thiết cho sự triển nở con người
mà sự phát triển các mối tình cao thượng
là quan trọng nhất như đã nói trên.
Đây là ý nghĩa cao cả, còn hiểu thấp xuống
thì là nắp mở an toàn để con người có dịp
xổ bớt ga ra do những điều không thể thỏa mãn, cũng như
những uất ức, trái tai gai mắt, mà không một ai
trong đời tránh hết được. Nếu không có dịp cho xổ
ra thì những điều đó sẽ lắng xuống tiềm thức, rồi
lên men gây nên những bệnh thần kinh. Các bệnh
thần kinh đều phát xuất do những mảnh đời sống không được
sống, như những uất ức không được nói ra, những yêu
thương không được giải bày, những khát vọng
không được đáp ứng.
19. Không may đó lại là điều xảy
ra thường xuyên từ hạ tầng đến thượng tầng. Ở hạ tầng cần phải ăn
mới sống, thế mà biết bao người không được no thỏa
vì thực phẩm cho đến nay nói chung vẫn chưa bao giờ dư
dật, nên xảy ra chuyện mạnh lấn yếu; do đó nhiều người bị
tước đoạt cả đến miếng ăn. Nhất là khi kẻ mạnh nắm được quyền
lực thì thường đặt ra những pháp luật khe khắt để bảo vệ
tài sản cũng như quyền hành, do đó sinh ra rất
nhiều hạn chế trói buộc không những bên ngoài
mà còn nắm lấy bao tử để chen cả vào đời sống tư
riêng, kiểm soát cả ý, cả tình, cả
chí. Thế là càng nhiều người bị tước đoạt hơn, khi
đó nó không những gây nên các
loại bệnh thần kinh gieo xao xuyến vào đời sống, mà
còn biến thể thành những bệnh khổ dâm, khốn
dâm, ưa thích phá hoại gây cho tha nhân
khổ lụy, càng khốc thảm càng sướng vì đấy
là những tên khốn dâm do bao đời bị đàn
áp kết tinh lại, không được những cuộc hội hè
đình đám xả bớt chất độc đi. Đó là
lý do sâu xa tại sao minh triết lập ra những cuộc lễ lạy
hội hè: một trong những mục tiêu thấp nhất là
tháo khoán tức cho phép vượt thể lệ thường nhật cả
trong việc ăn uống cũng như dục tính. Cho nên bản chất lễ
là sự quá cỡ thường với mục tiêu mở nắp an
toàn cho các uất ức buồn chán có dịp
tiêu tán để bớt đi sức nén. Còn hiểu cao hơn
thì hội hè chính là để con người được tham
dự vào thời tính cũng gọi là đại thời đại
không, tức như vượt mọi ranh giới của luật lệ, giai cấp để ai
cũng được ăn uống, nói năng, múa nhảy thỏa thích
hầu cho những mối tình khát mong sung túc, du dật,
san sẻ bầu bạn có thêm nội dung cụ thể trung thực.
Vì thế hội hè vẫn kéo theo đình đám.
20. Đình đám nói
lên cảnh phong liêu dư dật. Đó lẽ ra phải là
cảnh sống của con người. Không may con người chưa sao tạo được
cảnh phong nhiêu thừa thãi đó, thì ít
ra lâu lâu phải có những dịp khác thường nới
rộng sự ràng buộc hàng ngày để mọi người
cùng được tự do hơn. Đó là ý nghĩa của lễ
lạy, hội hè, đình đám nó đã xuất
hiện trên khắp hoàn cầu ở những thời xa xưa như lễ
Saturnales được mừng vào cuối năm trong xã hội cổ La
Mã. Trong những ngày ấy chủ đi giúp bàn,
còn ngồi ăn lại là nô lệ. Hơn nữa một nô
còn được chọn làm "vua" trong cả tuần lễ ; có
quyền sai khiến chủ. Bên Hy Lạp có lễ Hellades, ở đảo
Crete gọi là Kronos, Do Thái là Purim, Babylon
là Sacees... Tất cả đều nhằm đáp ứng nhu yếu thâm
sâu kia và thường được tổ chức vào cuối năm trong
những ngày thừa không kể vào tháng
nào, nên thuận lợi dùng làm những
ngày "tháo khoán". Đấy là ý nghĩa
thâm sâu của lễ lạy, hội hè, đình đám.
Tuy nhiên càng về sau các lễ càng bị
rút nhỏ lại hoặc sa đọa như thí dụ: nô lệ được
làm vua xong hết tuần lễ thì bị giết.
E. TRIẾT LÝ HỘI HÈ.
21. Sở dĩ như vậy vì hội hè kéo
theo một điều rất khó hiện thực đó là sự phong
nhiêu hiểu cả về dưới lẫn trên.
Dưới là sự dư dật tràn trề của ăn cho
mọi người. Trên là sự thỏa mãn cho mọi nhu yếu cả
ý, tình, chí. Cả hai điều đó đều đòi
phải có triết lý nhân sinh. Trước là để
thiết lập và duy trì bình sản, để ai ai cũng
có đủ tài sản.
Sau là nhìn nhận những thú vui,
thỏa thích là điều tốt cho sự phát triển con người
toàn diện, mà tình cảm cao thượng, vui sướng quảng
đại, bao dung, hỉ xả .. là những mạch sống lớn nhất.
22. Hai điều đó đã không
có trong những xã hội theo triết học cơ khí. Mặt
ngoài do sự tuyên dương quyền tư hữu đến độ tuyệt đối
đã bóp chết cảnh phong nhiêu không bao giờ
lan tỏa ra mọi người, cho nên dù xã hội giàu
đến mấy thì tiền của cũng chui vào túi riêng
một số rất nhỏ, hoặc vào tay chính quyền chuyên chế
thì hầu hết dùng vào việc mở mang quyền lực,
võ trang chinh phục. Còn đâu nữa cho đại
chúng có được cảnh sung túc để mà hội
hè. Mặt trong là thái độ thanh giáo khắc
nghị không chấp nhận những vui thỏa bị gọi là của
"xác thân" nên cho là xấu xa. Với thứ triết
lý đó làm sao mà hội hè còn
lý do tồn tại cho được.
23. Đến đây ta mới hiểu tậi sao miền đất Việt
Nho đã duy trì được nhiều lễ hội hơn hết cũng như
lâu dài hơn hết, là bởi đó là
quê hương của bình sản, cũng như triết lý tâm
tình được đề cao hết cỡ. Tình trời, tình đất,
tình người đều được vun tưới bằng đủ loại Nghệ thuật.
Nếu có bao giờ thế giới để ý đến sẽ
nhận ra rằng sau phần tư thế kỷ chiến tranh gieo rắc đầy đau thương thế
mà cái tết dài nhất thế giới vào năm 1975
vẫn xuất hiện ở miền Nam Việt Nam, chứ không có ở
đâu hết.
24. Thế giới càng lạ hơn nữa khi biết
Tàu, Nhật cũng đã chính thức bãi bỏ tết từ
lâu, thế mà tới tận năm 1975 nghĩa là vài
tháng trước khi sụp đổ Nam Việt Nam vẫn còn ăn tết to nếu
không cả tháng giêng thì cũng phải đến
vài ba tuần sửa soạn và một tuần ăn tết. Có điều
lần này phải đổi cung cách:
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng năm sang Mỹ
Tháng ba luận bàn
(bài này được kết vào
tháng ba)
25. Nhiều người nói dân Việt Nam
nặng tinh thần nhẹ vật chất. Đó là câu nói
trúng, nếu cần đưa chứng tích thì tết chính
là một bằng chứng cụ thể nhất. Mỹ cũng phải chào thua
cái tết của Việt Nam, nó uy linh đồ sộ lắm lắm. Vì
thế tết còn là lý chứng hùng hồn cho
tâm linh sử quan tức không phải chỉ có hạ tầng mới
chỉ huy nổi thượng tầng. Vì nếu chỉ có thế thì
Việt Nam đã phải bãi bỏ tết từ lâu lắm rồi. Bởi
chưng là miền nghèo lại hay bị loạn lạc.
26. Thế tại sao ở đây lại còn giữ được
tết lâu nhất, thì đó là đấu thượng tầng văn
hóa chỉ huy hạ tầng, Và đã như vậy từ lâu
lắm như thấy diễn tả trên mặt trống đồng. Trong ấy con người
múa nhảy thanh thoát như chim. Muôn vật cũng
hòa nhịp trong bài ca vũ trụ. Nói vũ trụ
vì gồm trời đại diên cho mặt trời, và đất
biểu thị bằng những vòng vũ tả nhậm. Tất cả xuất hiện thanh thản
an nhiên như chim. Chim đủ loại: Lạc, Hạc, Vụ, Hồng, Địch.
Cái chi cũng chim. Chày giã gạo cũng được trang bị
lông chim để nói lên một cảnh tiêu dao
siêu thoát khiến người xem nào cũng muốn bay bổng
lên cùng. Sao mà an nhiên tự tại như cảnh địa
đường vậy chứ. Có phải tại Việt Nam giầu nhất chăng? Đâu
có, nghèo hơn Mỹ ít nhất 50 lần. Vậy mà tại
sao Mỹ không có nổi được cái tết dài. Tại
sao bên các xã hội giàu mạnh hơn, tết lại
teo đi theo độ giàu thịnh.
27. Đây là câu hỏi rất
đáng cho chúng ta suy nghĩ bởi vì hậu quả sẽ
là tìm ra bí quyết sống thanh thoát như
chim; làm ít ca hát nhiều, suốt đời bay nhảy.
Còn ngược lại sẽ là sống như đoàn kiến lật quật cả
ngày, khuân vác liên tục không
có lấy một chút thì giờ ngửa mặt lên kiểu
nông nghiệp của tổ tiên ta:
"Người ta đi cấy lấy công
Tôi đây đi cấy còn trông
nhiều bề
Trông trời trông nước trông
mây"...
Không chỉ biết có lợi hành bằng
lấy công mà còn an hành biểu thị bằng
trông trời mây nước Có vậy lòng mới mở ra man
mác như vũ trụ. Có vậy mới đủ sức kiến tạo được một triết
lý an hành với một nhịp làm rồi một nhịp chơi xen
kẽ, và duy trì được như thể trải qua muôn thế hệ.
Đâu là bí quyết của sự vụ? Đã biết điều kiện
vật chất của tết nhất hội hè là sự dư dật thừa
thãi. Tại sao Việt Nam không có thừa của mà
còn giữ được tết nhất lâu dài như vậy? Câu
thưa tiên thiên nằm trong thành ngữ 'vài ba"
mà ý nghĩa là đặt tinh thần trên vật chất.
Nếu ta mở sách năm châu kim cổ thì chẳng thiếu
những câu nói như thế (tinh thần hơn vật chất) chứ chẳng
riêng gì Việt Nam, nhưng có một điều lạ, là
tuy lời nói thì có đặt tinh thần trên vật
chất, nhưng trong cơ chế thì rõ rệt là để hạ tầng
cơ sở chỉ huy thượng tầng. Cho nên lại phải tìm thêm
nữa.
28. Lúc ấy ta sẽ thấy một sự khác biệt
biểu lộ bằng chữ Trống: Tâm hồn có trống rỗng thì
chiều kích vô biên mới được nuôi dưỡng.
Đó là phương thức đáp ứng nhu yếu thâm
sâu hơn hết của con người đó là sự đói
khát vô biên. Phải nói ngay đây
chính là nền tảng làm cho con người cao cả hơn con
vật. Con vật chỉ ăn những vật hữu hạn. Con người không thế,
ngoài của ăn hữu hạn còn cần của ăn vô hạn, chứng
tỏ nó có một chiều kích vô biên cần
được nuôi dưỡng. Chính chiều kích đó
làm cho con người khác thú vật ở chỗ muốn vượt xa
khỏi hữu hình, mà bao lâu chưa vượt được thì
con người vẫn chưa mãn nguyện, vì thế cứ phải tìm
thêm hoài, tích lũy mãi mãi.
Đó là lý do gây nên sự đói
vô biên, là cái sẽ đọa ra lòng tham
vô đáy. Làm thế nào để thỏa mãn
lòng tham vô đáy nọ. Như đã nói chỉ
có con đường duy nhất là trống rỗng, là vô
thanh vô xú ... Nhưng cho tới nay con người đều đi lối
bít kín, đi lối chắc nịch: lối có, mà
đã có thì đối tượng phải ở bên ngoài
con người mất rồi và vì vậy không còn
là vô biên, không thể làm no
lòng khát cái vô biên của con người.
Thế là đói bên trong, đói cái
vô biên, mà lại tìm chất nuôi bên
ngoài, chất nuôi hữu hạn, khác nhau chỗ đó.
Chính vì vậy ... không bao giờ đạt được đức quả dục
mà khẩu hiệu của nó là câu nói trong
Đạo Đức kinh:
"Tri túc tiện thị túc
Tri nhàn tiện thị nhàn"
"Biết đủ tức có đủ
Biết nhàn tức có nhàn"
Có biết đủ mới bỏ thời giờ ra hưởng
nhàn như ăn tết, hội hè. Có biết đủ những người
giàu mới sẵn sàng bỏ tiền của ra tổ chức đình
đám cho mọi người cùng hưởng. Đó là về tư
nhân.
29. Về phía chính quyền có tri
túc mới đủ can đảm hiện thực chế độ quân phân
tài sản, để đáp ứng nhu yếu đầu tiên của mọi người
là ăn. Tết nhất hội hè chỉ có chỗ đứng nơi
nào con người có đủ ăn, dư ăn. Bí quyết của Việt
Nam nằm chỗ đó: tài sản ít nhưng cố theo
chính sách chia đều. Tuy trong thực tế còn rất xa
lý tưởng, dù vậy đã có được nền tảng cho sự
dư dật đồng đều tức cũng là có nền cho hội hè
đình đám. Vậy nên sự có hội hè
đình đám chứng tỏ triết lý Việt Nho đã đi
đúng hướng tâm linh, nên làm no thỏa được
"nhân dục vô nhai" rồi. Con đường ấy tóm vào
"ba hồi trống thu không" bao giờ cũng được đánh lên
để khai mạc mỗi cuộc hội hè đình đám.
30. Tóm lại, muốn có hội hè
đình đám phải có quân phân, muốn
có quân phân thì phải có triết
lý an vi hướng dẫn. Con người không những có cưỡng
hành, lợi hành, mà còn cần an hành.
Muốn được như vậy phải biết cách lấp được lòng tham
vô đáy. Nhưng cho tới nay người ta không lấp được:
tư bản hay cộng sản cũng thế. Cả hai đi theo nguyên lý
đồng nhất nên dùng A lấp A. Tham của thì
dùng của mà lấp. Nhưng của có hạn mà
lòng tham vô đáy lấp sao nổi. Thế là từ đấy
mọi người trong nước đều phải làm hùng hục để tích
lũy, không còn thì giờ để nghỉ ngơi, hay nếu
có nghỉ thì chỉ là để lấy sức đặng lao động tốt
nữa, làm sao có được những chiều kích siêu
việt của tết nhất hội hè. Làm sao có được như thế
với cái triết lý lao động hiện đại nặc mùi
xú khí của lao ngục, lao tù, lao đao, lao khổ, lao
phổi, lao tim!
Với bi trạng lao tác kiểu đó
thì đời con người với kiếp trâu ngựa có còn
khác chi đâu, thua hẳn loài chim, cả đời bay nhảy
múa hát. Ngược lại, nhờ có triết lý an vi
đã xuất hiện với muôn tiếng chim hát đón
chào mà tiên tổ Việt tộc đã có thể
sống an nhiên thanh thoát như được ghi lại trên mặt
trống đồng Ngọc Lữ ca vũ ngút ngàn.
|
|
|
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Phong Thái An Vi
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
là
nơi lưu trữ và phổ biến di sản
văn hóa của Việt tộc
|
|