Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Trang
Việt Nam Cộng Hòa
Đề Mục
1-
Đại
Tướng
Cao
Văn Viên Kể lại 2 buổi họp lịch sử
2- Những ngày
cuối Việt Nam Cộng Hòa
3- Tướng Lãnh
Việt Nam Cộng Hòa
4- Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
5- Thiếu Tướng Lê
Minh Đảo và Sư Đoàn 18 Bộ Binh
|
Đại Tướng Cao Văn
Viên kể lại 2 buổi họp lịch sử Tháng 3/75
Ngày gởi: 05/05/2010 bởi ovv
Trong loạt bài viết về cuộc triệt thoái khỏi
Cao nguyên trong tháng 3/1975, được phổ biến trên
Việt Báo cách đây hai năm, chúng tôi
có trình bày sơ lược về một số cuộc họp đặc biệt
của Hội đồng An ninh Quốc gia do Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu chủ
tọa để duyệt xét tình hình chiến sự. Thể theo lời
yêu cầu của đông đảo bạn đọc, VB xin giới thiệu bài
viết trình bày chi tiết về hai cuộc họp lịch sử di-n ra
trong tháng 3/1975, một cuộc họp tại Dinh Ðộc Lập vào
ngày 11/3 và cuộc họp mang tích cách quyết
định chiến trường Quân khu 2 tổ chức tại Cam Ranh ngày
14/3. Phần này được biên soạn dựa theo loạt bài của
cựu đại tướng Cao Văn Viên viết cho Trung tâm Quân sử
Lục quân Hoa Kỳ (nguyên bản bằng tiếng Anh, do dịch giả Duy
Nguyên chuyển sang tiếng Việt), có đối chiếu với
các bản tin chiến sự của Tổng cục Chiến tranh Chính trị
QL.VNCH phổ biến cho báo chí, và hồi ký của
cựu trung tướng Trần Văn Ðôn.
*
Cuộc
họp
ngày 11/3/1975 tại Dinh Ðộc Lập
Một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công
vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11 tháng
Ba, 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời Thủ tướng
kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Thiện Khiêm, đại
tướng Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên, trung tướng
Ðặng Văn Quang, phụ tá An ninh của Tổng thống đến dinh
Ðộc Lập để ăn sáng và họp. Sau khi ăn và uống
cà phê xong, các nhân viên phục dịch đi
hết, Tổng thống Thiệu lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ của
Việt Nam Cộng Hòa và bắt đầu nói đến tình
hình quân sự ở mỗi nơị Sau đó, Tổng thống Thiệu
nói thật rằng “tính ra thực lực của chúng ta
thì không thể nào giữ hết nổi lãnh thổ như
ý chúng ta được”. Vì vậy chúng ta cần phối
trí lực lượng lại để phòng thủ những nơi nào
đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo
vệ những nơi nào hiểm yếu.
Nhắc lại chuyện này, đại tướng Viên đã ghi
lại trong hồi ký như sau: Kết luận này làm
chúng tôi ngạc nhiên vì nói như vậy
tức là ông đã cân nhắc rất kỹ lưỡng. Dường
như ông chưa muốn công bố quyết định này nên
tỏ ý rằng chỉ cho ba chúng tôi tham dự bữa ăn
sáng này biết trước. Tổng thống Thiệu đã vạch ra
một bản đồ ghi những vị trí quan trọng. Ða số các vị
trí này đều nằm quanh Quân khu 3 và 4
cùng với hải phận của hai quân khu này. Chỉ một
vài nơi quan trọng mà hiện lúc ấy đang bị Cộng sản
chiếm và như vậy Quân đội VNCH phải ra sức tái
chiếm lấy bằng mọi giá. Sau cùng, lãnh thổ
mà Quân đội VNCH sẽ giữ gồm những nơi vựa lúa, đồn
điền cao su, khu kỹ nghệ, v.v. Chính phủ cần giữ những nơi
trù phú và đông dân đó.
Thêm nữa, ngoài thềm lục địa vừa mới khám
phá có dầu, và chính phủ xem đó
là những vùng yết hầu bất khả xâm phạm, nơi cần giữ
vững nhất là Sài Gòn, các tỉnh phụ cận
và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Theo lời đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu đã thao
thao bất tuyệt về kế hoạch tái phối trí vùng địa
lý chánh trị, nhưng khi đề cập đến Quân khu 1
và Quân khu 2 thì Tổng thống Thiệu không
còn vẻ khẳng khái. Còn Cao nguyên Trung phần
thì ông vừa nói, vừa dùng tay chỉ vào
khu vực Ban Mê Thuột, quan niệm rằng đó là nơi quan
trọng hơn Pleiku và Kontum gộp lại vì vị trí kinh
tế và dân số. Những tỉnh dọc duyên hải Quân
khu 2 cũng quan trọng không kém vì các tỉnh
này có thềm lục địa nhiều tiềm năng khai thác.
Còn đối với Quân khu 1 thì ông chủ trương giữ
vững những gì giữ được. Tại đây, ông phác họa
một kế hoạch nhiều giai đoạn đánh dấu bằng đường ranh cắt bỏ dần
để rút xuống phía Nam. Ông nói: Nếu
chúng ta đủ sức, hì sẽ giữ đến Huế hay Ðà
Nẵng. Nếu không thì rút về và giữ từ Chu Lai
hoặc từ Tuy Hòa trở vào. Ông nhấn mạnh làm
như vậy chúng ta mới tái phối trí được khả năng
mình, giữ vững được các yếu điểm của lãnh thổ một
cách hữu hiệu và mới có cơ may phát triển
đất nước giàu mạnh được.
Cứ như vậy, Tổng thống Thiệu nói hết ý định của
mình, và cũng kể như quyết định quan trọng. Thế nhưng
dụng ý của toàn bộ kế hoạch thì chưa rõ,
nhưng chắc chắn sẽ tạo ra nhiều vấn đề, nhất là về phương diện
quân sự. Với tư cách một Tổng tham mưu trưởng, cố vấn
quân sự cho Tổng thống, đại tướng Viên cảm thấy có
bổn phận phải lên tiếng. Sau đây là ý kiến
của đại tướng Viên trình bày tại buổi họp:
Tôi (đại tướng Viên) nói rằng khi tái phối
trí thì quả thật có hiệu quả phòng thủ tuy
hệ quả của nó không thể tránh khỏi, và
tôi cũng đã từng nghĩ đến tình trạng này từ
lâụ Tuy nhiên tôi chưa nói ra vì chưa
phải lúc. Trước hết, tái phối trí là
trái với chủ trương duy trì chính sách quốc
gia, và thứ hai tôi đưa ra đề nghị đó thì
có thể bị nghĩ là có óc chủ bại. Duy
có điều tôi nhấn mệnh đến một sự tái phối
trí lúc này đã quá tr- và
không chắc thành công được. Ngoài ra
tôi không cho rằng quyết định này của Tổng thống sẽ
loại trừ được bất cứ chỉ trích có lợi nào.
Dù sao, với tư cách tổng tư lệnh Quân đội, Tổng
thống có toàn quyền và trách nhiệm để đưa
ra mọi quyết định ứng phó với cuộc chiến. Chắc ông
đã nắm vững những gì ông đang làm chứ.
Nhận xét tổng quát về quyết định của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu, đại tướng Viên viết: Cho dù quyết định
này có đi sai chính sách quốc gia hiện
hành đến cách mấy, bản thân quyết định đó
vẫn hợp lý mà một nhà lãnh đạo có
thể làm được. Ðã hai năm kể từ ngày Hiệp định
Ba Lê được ký kết, tình hình cứ suy sụp đến
mức báo động. Chỉ có thể phê bình Tổng thống
là ở điểm tại sao ông đợi lâu đến như vậy mới đưa ra
quyết định. Trong cuộc họp, ông không hề giải thích
hay có hướng dẫn nào về những bước cần thiết khi
ông quyết định như vậy. Dường như quyết định do thực tế bên
ngoài đưa tới.
*
Cuộc họp ngày 14/3/1975 quyết định tình hình chiến
trường
Cũng theo hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, hai
ngày sau cuộc họp lịch sử tại Dinh Ðộc Lập (ngày
11/3/1975), Tổng thống VNCH Nguy-n Văn Thiệu muốn lên thăm tướng
Phạm Văn Phú ngay tại bộ tư lệnh Quân đoàn 2 ở
Pleikụ Nhưng lúc đó, Ban Mê Thuột đang bị Cộng
quân vây hãm, còn Pleiku thì bị
áp lực địch vì hỏa lực pháo binh của địch cứ
nã vào thị xã từng hồi. Do đó Tổng thống
Thiệu không thể đến được. Lo lắng cho sự an toàn của Tổng
thống, thiếu tướng Phú đề nghị họp tại một địa điểm khác.
Sau một hồi bàn bạc, Tổng thống Thiệu quyết định họp tại Cam
Ranh. Buổi họp di-n ra ngày thứ Sáu, 14 tháng
3/1975.
Ðịa điểm họp này là một tòa
nhà nằm vắt vẻo trên đỉnh đồi. Ðó là nơi
mà vào năm 1966 binh sĩ Hoa Kỳ cấp tốc xây dựng để
chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của Tổng thống Johnson khi ông
ghé thăm lực lượng Hoa Kỳ tại Cam Ranh. Cùng đi với Tổng
thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra Cam Ranh có Thủ tướng Trần Thiện
Khiêm, đại tướng Cao Văn Viên, trung tướng Ðặng Văn
Quang.
*
Diễn tiến cuộc họp lịch sử
Mở đầu cuộc họp là phần trình bày của
thiếu tướng Phú. Với tư cách là tư lệnh Quân
đoàn 2 & Quân khu 2, tướng Phú thuyết
trình về tình hình bạn và địch trong khu
vực trách nhiệm của mình. Phần thuyết trình chấm
dứt, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên
quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là thiếu
tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột
không. Những người tham dự đều biết trước là thiếu tướng
Phú không khẳng định được điều này nên
không có câu trả lời dứt khoát. Tướng
Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh.
Quay sang đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem
còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên
giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết
rõ câu trả lời. Ðại tướng Viên cho biết đơn vị
cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Ðộng
Quân đã được phái lên Vùng 2 theo
yêu cầu của thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là
Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân
lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972. Theo lời đại
tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm
trọng như vậy mà bộ Tổng Tham Mưu không thể nào
tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy
là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân
đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải
làm gì.
*
Kế hoạch rút quân khỏi Cao nguyên
Một lần nữa, cũng như lần ăn sáng trước tại Dinh
Ðộc Lập, Tổng thống Thiệu đứng bên tấm bản đồ Việt Nam Cộng
Hòa, còn thiếu tướng Phú nhìn chăm
chú. Tổng thống Thiệu vừa chỉ, vừa nói, giải thích
những điểm trọng yếu mà tướng Phú có nhiệm vụ phải
bảo vệ. Theo Tổng thống Thiệu, vì lý do dân số
và địa lý, Ban Mê Thuột lúc nào cũng
quan trọng hơn cả Pleiku và Kontum cộng lại. Vì vậy
bây giờ Quân đoàn 2 phải dùng lực lượng cơ
hữu của mình chiếm lại thị xã Ban Mê Thuột bằng mọi
giá, và như thế phải triệt thoái lực lượng tại
Pleiku và Kontum.
Sau đó, Tổng thống Thiệu hỏi tướng Phú là
sẽ bố trí lực lượng ra sao để chiếm lại và đường
nào sẽ dùng để chuyển quân đến Ban Mê Thuột.
Tướng Phú đã trình bày rằng Quốc lộ 19 chạy
từ Pleiku về hướng Ðông ra đến biển thì không
thể dùng được, đại đơn vị còn đầy đủ quân số
và khả năng chiến đấu tốt là Sư đoàn 22 Bộ binh
đã không khai thông được đoạn đường tại Bình
Khệ Quốc lộ 14 nối liền Ban Mê Thuột và Pleiku theo trục
Nam-Bắc cũng bị cắt tại Thuận Mẫn, phía bắc thị xã Ban
Mê Thuột.
Tướng Phú nhận định rằng có thể giải tỏa đường
này nhưng rất khó khăn vì làm như vậy địch
quân sẽ biết có quân cứu viện. Vì vậy, theo
tướng Phú cho rằng ông muốn sử dụng con đường liên
tỉnh lộ 7B. Ðây là con đường đá từ quốc lộ 14
đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát
biển. Ðường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị
bỏ lâu không dùng đến.
*
Lộ trình rút quân và những bài học từ
cuộc chiến Ðông Dương
Theo phân tích của đại tướng Viên,
ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn
dùng được, đoạn còn lại không biết tình
hình giao thông như thế nào. Tuy nhiên,
có một điều biết chắc là cầu bắc qua sông Ba về
phía Nam của Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn
toàn, không thể sửa chữa được, và đoạn đường
chót đến phía tây Tuy Hòa thì những
năm trước, lực lượng Ðại Hàn hoạt động tại đây
đã gài mìn dày dặc. Thế nhưng tướng
Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo lộ
trình này. Giải thích về sự chọn lựa này,
tướng Phú nói yếu tố bất ngờ đã khiến ông
có dự tính như thế. Tướng Phú chỉ yêu cầu bộ
Tổng Tham Mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà
thôị Với quyền hạn của một tổng tham mưu trưởng, đại tướng
Viên chấp thuận ngay lời yêu cầu của tướng Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế
hoạch chuyển quân của tướng Phú, đại tướng Viên cho
rằng “đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân
cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn
đường dài hơn 260 cây số qua núi cao và rừng
già trên vùng Cao nguyên mà
không biết tình hình an ninh con đường đó ra
sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được
yếu tố bất ngờ hay không là do khả năng di chuyển nhanh
gọn. Nhưng là một người chỉ huy sáng suốt thì
lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước
tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng
khắp tại khu vực đó”.
Trong phần thảo luận, với tư cách tổng tham mưu trưởng,
tướng Viên đã nhắc nhở tướng Phú về những
khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp
an ninh cần chuẩn bị. Tướng Viên cũng đã đề cập đến sự
thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ
Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc cho tướng
Phú về hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn
Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất
Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao
Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát
tại chân núi xung quanh Ðông Khê, dọc theo
Quốc lộ Thuộc Ðịa số 4. Về địa thế và con đường mà
thiếu tướng Phú chọn để di chuyển quân đoàn 2
thì vào tháng 6/1954, Lực lượng cơ động 100 nổi
tiếng của quân đội Pháp tại Ðông Dương đã
bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số
sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Ðeo
Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo tướng Viên, đó
là “những bài học máu xương và thảm khốc
nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ
vì địa thế hiểm trở của vùng Cao nguyên là
vậy.”
Vương Hồng Anh tổng
hợp
Nguồn:
http://ongvove.wordpress.com/2010/05/05/t%c6%b0%e1%bb%9bng-cao-van-vien-k%e1%bb%83-l%e1%ba%a1i-2-bu%e1%bb%95i-h%e1%bb%8dp-l%e1%bb%8bch-s%e1%bb%ad-thang-375/
Những Ngày cuối Việt Nam Cộng
Hòa
Những Ngày
Cuối VNCH 1
Lời tòa
soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “Ngày 30-4-1975″,
nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng
giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra
từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài
này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau
đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung
tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký
của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng
cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung
tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các
nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong
Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
và tài liệu riêng của Việt Báo. Riêng
trong bài về mặt trận Ban Mê Thuột, một số sự kiện được
biên soạn dựa theo hồi ký của Đại tá Nguyễn Trọng
Luật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac, nhật ký hành
quân của Thiếu tá Phạm Văn Huấn, Sĩ quan Báo
chí của Tư lệnh Quân đoàn 2.
Tưởng Niệm
30 Tháng 4/1975: Mặt Trận Ban Mê Thuột Ngày
10-3-1975
Vương Hồng Anh
*Cao nguyên
ngày N-1
Ngày N-1 của mặt
trận Cao nguyên là ngày 9 tháng 3/1975,
ngày Cộng quân gia tăng áp lực khi mở trận tấn
công đánh chiếm quận lỵ Đức Lập(tỉnh Quảng Đức). Từ diễn
biến này, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân
đoàn 2 &Quân khu 2, đã bay đến Ban Mê
Thuột để thị sát tình hình và họp với Chuẩn
tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh
(lúcbấy giờ là Tư lệnh Mặt trận Nam Pleiku), các
Tỉnh trưởng/Tiểu khutrưởng Darlac và Quảng Đức. Cuộc họp diễn ra
tại Trung tâm Hành quân bộ Tư lệnh Sư đoàn 23
Bộ binh, kéo dài từ 12 giờ trưa đến 5giờ chiều.
Sau khi nghe Trung
tâm Hành quân trình bày tình
hình ở Đức Lập, Thiếu tướng Phú quay sang Đại tá
Phạm Văn Nghìn, Tỉnhtrưởng/Tiểu khu trưởng Quảng Đức, cho những
chỉ thị cần thiết, và ra lệnh cho vị tỉnh trưởng này bay
về ngay tỉnh lỵ để đôn đốc chỉ huy các đơn vị chuẩn bị đối
phó với tình hình mới. Thiếu tướng Phú
nói với Tỉnh trưởng Quảng Đức rằngtrong trường hợp Quảng Đức bị
tấn công, ngoài Liên đoàn 24 Biệt động
quân đang tăng phái cho tỉnh này, ông sẽ tăng
cường thêm quân để chận địch. Ông nhấn mạnh với Đại
tá Nghìn: “Lệnh Tổng thống phải giữ Quảng Đức bằng mọi
giá.”
Đại tá
Nghìn vừa rời phòng họp, Thiếu tướng Phú ra lệnh
cho Thiếu tá Nguyễn Văn Hóa, sĩ quan tùy
viên , lo chuẩn bị bản đồ các mặt trận để ông họp
tiếp tại văn phòng Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh với Chuẩn
tướng Trường và Đại tá Vũ ThếQuang,Tư lệnh phó Sư
đoàn 23 Bộ binh, Đại tá Nguyễn TrọngLuật, Tỉnh
trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac. Trong cuộc họp, Thiếu tướng Phú
đã hỏi Chuẩn tướng Trường là nhận định thế nào về
tin tức tình báo cho rằng sư đoàn F 10 CSBV
đã về Quảng Đức, và trong trườnghợp như thế, có
nên rút bớt lực lượng Sư đoàn 23 Bộ binh đang
hành quân tại Pleiku về tăng cường cho mặt trận ở Quảng
Đức và Ban Mê Thuột không? Chuẩn tướng Trường
đã trình với Thiếu tướng Phú rằng có thể
có một phần của 2 sư đoàn F-10 và sư đoàn
320CSBV đã về hoạt động tại hai tỉnh này, nhưng Tướng
Trường không tin rằng toàn bộ sư đoàn F10 đã
di chuyển về Quảng Đức. Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh nhận định
rằng có khả năng là sư đoàn CSBV này sẽ để
lại 1 hoặc 2 trung đoàn để phối hợp với sư đoàn 968 CSBV
từ Lào xâm nhập qua để mở mặt trận tại Nam Pleiku.
Sau lời trình
bày của Chuẩn tướng Trường, Đại tá Luật báo cho
Thiếu tướng Phú biết là cách đây hai
ngày trung đội Thám báo Tiểu khu Darlac đã
phục kích bắt được 2 tù binh CSBV tại một ấp Thượng
cách tỉnh lỵ 10 km, trong đó có 1 sĩ quan bị
thương. Cả hai tù binh khai là thuộc bộ phần tiền
thám của sư đoàn 320 CSBV. Viên sĩ quan tù
binh CSBV tiết lộ là sư đoàn 320 CSBV được lệnh chuẩnbị
tấn công Ban Mê Thuột. Theo đề nghị của Đại tá Luật,
Thiếu tướng Phú đã cho gọi Trưởng phòng 2 Tiểu khu
Darlac trình bày chi tiết về cung từ của hai tù
binh.
Trước những báo
cáo của Tiểu khu Dralac, sau một lúc suy nghĩ để lượng
định tình hình, Thiếu tướng Phú ra lệnh cho Chuẩn
tướng Trường bay về Pleiku trước để phối trí lực lượng tại
đây, chuẩn bị lực lượng tiếp ứng cho Quảng Đức khi tỉnh
này bị tấn công. Từ 4 giờ đến 5giờ chiều, Thiếu tướng Phạm
Văn Phú họp tiếp với Đại táQuang,được chỉ định làm
Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột, và Đại tá Luật về kế
hoạch bảo vệ tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Trong giờ cuối cùnghọp với
tướng Phú, Đại tá Vũ Thế Quang đã trình
bày sự phối trílực lượng như sau:
-Phòng thủ
phía Bắc: Trung tâm huấn luyện Sư đoàn 23 Bộ binh.
-Phòng thủ phía Đông: Bộ chỉ huy chi khu Ban
Mê Thuột và đơn vịĐịa phương quân thống thuộc chi
khu.
-Lực lượng phía Tây-khu vực trọng yếu và nguy hiểm
nhất có hậu cứcủa tiểu đoàn của Thiết đoàn 3 Thiết
kỵ và kho đạn Mai Hắc Đế.Ngoài ra, doanh trại các
tiểu đoàn Pháo binh, Công binh, Truyền tin thống
thuộc Sư đoàn 23 bộ binh đóng gần thị xã đều tận
dụngquân số tại hàng để tổ chức phòng ngự trong
phạm vi trách nhiệm.Lực lượng trừ bị cho thị xã Ban
Mê Thuột là lực lượng Trung đoàn53 Bộ binh (trung
đoàn trừ, chỉ có 2 tiểu đoàn), án ngữ tại
phitrường Phụng Dực. Riêng về trách nhiệm của Tiểu khu
Darlac, Đại tá Nguyễn Trọng Luật đã cho điều động Tiểu
đoàn 204 Địa phương quân đang đóng tại Ban Don về
thị xã. Việc di chuyển không phảidễ dàng vì
phải trưng dụng tất cả các quân xa trong toàn thị
xã Ban Mê Thuột mới đủ quân xa để vận chuyển cả một
tiểu đoàn.
* 2 giờ
sáng ngày 10/3/1975: Mặt trận Ban Mê Thuột
bùng nổ
Đúng 2 giờ
sáng ngày 10 tháng Ba/1975, Cộng quân khai
hỏa tấncông vào Ban Mê Thuột. Tiếng pháo
kích rền vang trong thị xã này đến 4 giờ
sáng. Sau đó, Cộng quân đã sử dụng chiến
thuật tiền pháo hậu xung tấn công chiếm kho đạn Mai Hắc Đế
ở phía Tây. Đơn vị trú phòng đã chống
trả mãnh liệt và bảo vệ được kho đạn. Về phíaBắc,
Đài Truyền tin của Không quân cũng bị tấn
công. Đến 7 giờsáng Cộng quân ngưng pháo
kích vào thị xã nhưng đã điều động bộ binh
và thiết giáp tiến vào thị xã và
khai triển lực lượng xungquanh nhà thờ thị xã.
Để tiện phối hợp trong việc chỉ huy, Đại tá Nguyễn Trọng Luật
đã xin Thiếu tướng Phạm Văn Phú cho ông được qua ở
chung với Đại táVũ Thế Quang. Đề nghị của Đại tá Luật
được tướng Phú chấp thuận.Sự lo ngại của Đại tá Quang
và Đại tá Luật là chiến xa Cộng quân
đã lọt vào thị xã. Từng là Tư lệnh 1 Lữ
đoàn Kỵ binh, Đại tá Luật thấy rõ hỏa lực tấn
công của địch một khi có thiết giáp tham chiến. Tuy
nhiên cả Đại tá Quang và Đại tá Luật vẫn hy
vọng ở sự yểm trợ của Không quân VNCH khi trên bầu
trời Ban Mê Thuột đã xuất hiện những phi cơ L 19 và
các phản lực cơ chiến đấu. Tinh thần của quân sĩ
trú phòng lên cao. Các đoàn chiến xa
của Cộngquân từ hướng bắc tiến về phía Nam đã bị
các đơn vị Địa phương quân của Tiểu khu Darlac đánh
chận lại.
Cộng quân thay đổi
chiến thuật tấn công: Trưa ngày 10/3/1975, đối phương
đã pháo kích dồn dập vào bộ chỉ huy tiểu
khu và một số vị trí trọng yếu trong thị xã, trong
đó có cả bản doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.
Hệ thống truyền tin tại bộ chỉ huy Tiểu khu bị trúng đạn
pháo, hư hại nặng. Trước tình hình đó,
Thiếu tá Hy, trưởng phòng 3 Tiểu khu, xin Đại tá
Luật cho di chuyển bộ tham mưu ra khỏi vị trí. 13 giờ 30, Thiếu
tá Hy báo cáo Cộng quân tập trung
pháo binh bắn vào doanh trại bộ chỉ huy, sau đó
chiến xa và bộ binh Cộng quân tràn vào hệ
thống phòng thủ. 2 giờ chiều cùng ngày, Cộng
quân tràn ngập vào doanh trại này. Đại
tá Nguyễn Trọng Luật liền khẩn báo cho Thiếu tướng Phạm
Văn Phú. Tướng Phú ra lệnh cho trực thăng vận Liên
đoàn 21 Biệt động quân xuống Ban Mê Thuột để
tái chiếm doanh trại bộ chỉ huy Tiểu khu. Đúng 17 giờ,
đoàn trực thăng đã đến gần thị xã nhưng
không đáp xuống được vì hỏa lực phòng
không của Cộng quân.
Cuối cùng, vào lúc 18 giờ, Bộ Tư lịnh QĐ 2 quyết
định thay đổi vị trí bãi đổ quân. Liên
đoàn 21 BiệtĐộng Quân được thả xuống trong khu vực Bộ Chỉ
huy Chi khi Buôn Hô rồi từ đó di chuyển bằng đường
bộ tiến vào thị xã Ban Mê Thuột.
Về trận chiến quanh thị
xã Ban Mê Thuột, sau những trận tấn công cường tập
vào một số vị trí trong yếu quanh vòng đai Ban
Mê Thuột trong sáng ngày 10/3/1975, CQ đã
điều động một trung đoàn mở cuộc tấn công lần thứ 2
vào kho đạn Mai Hắc Đế,một căn cứ được xem là tiền đồn
của thị xã Ban Mê Thuột, có 1 diện tích rất
rộng với hệ thống tuần tiểu bên ngoài dài hơn 15
km. CQ đã chiếm trại, nhưng bị tổn thất nặng trước tinh thần
chiến đấu quyết tử của lực lượng trú phòng. Sau đó
CQ đã tung lực lượng chiếm các doanh trại gần đó
như Tiểu đoàn 23 truyền tin, Trungtâm huấn luyện Địa
phương quân, Đơn vị hành chánh tài
chánh…
Tại phi trường Phụng Dực,
ngay từ ngày 10/3/1975, CSBV đã điềuđộng 2 Trung
đoàn thuộc sư đoàn 320 và 1 tiểu đoàn chiến
xa tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của Trung
đoàn 53 Bộ binh. Đây là trung đoàn tăng
phái cho Quảng Đức vừa được điều động về BanMê Thuột, do
phải bố trí một thành phần phòng thủ chận địch ở
Thuận Mẫn (Đông Bắc Ban Mê Thuột), nên Trung
đoàn chỉ còn lại 2 tiểu đoàn. Bị tổn thất nặng
trong các trận kịch chiến với CQ tại Quảng Đức, nên tổng
quân số của hai tiểu đoàn chỉ còn hơn 600 chiến
binh. Rạng sáng ngày 11/3/1975, Cộng quân đã
mở đầu đợt tấn công thứ hai vào phi trường Phụng Dực bằng
những trận những đợt pháo kích dồn dập, sau đó,
thiết giáp và bộ binh CQ ồ ạt xông lên. Lực
lượng phòng ngự của Trungđoàn 53 Bộ binh đã
bình tỉnh chống trả, chận đứng được các đợt xung phong
của địch quân. Các khẩu độipháo binh 105 của lực
lượng trú phòng đã bắn trực xạ vào
các chiến xa T 54 của địch quân.
Theo báo
cáo sơ khởi của các cánh quân bảo vệ Ban
Mê Thuột thì tính đến 6 giờ chiều ngày
10/1975, CQ đã bị loại ra ngoài vòng chiến khoảng
300 cán binh CSBV, 12 chiến xa T-54 Cộng quân bị bắn
cháy. (V)
14-3-1975:
Tổng Thống Thiệu Quyết Định Bỏ Cao Nguyên
Vương Hồng Anh
*Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh triệt thoái lực lượng VNCH
khỏi Cao nguyên
Sau cuộc họp với Hội đồng
AnNinh Quốc gia tại Dinh Độc Lập ngày 13/3/1975 có sự
tham dự củaTrung tướng Ngô Quang Trưởng-Tư lệnh Quân
đoàn 1- để bàn về kếhoạch tái phối trí lực
lượng trong tình hình mới, sáng ngày
14tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ
tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng
Đặng Văn Quang,Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp
với Thiếutướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn
2& Quân khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ,
Tổnthống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú phảirút toàn
bộ lực lượng Quân đoàn 2 tại hai tỉnh Pleiku và
Kontumvề khu vực duyên hải miền Trung (Phú Yên
và Khánh Hòa) để táiphối trí lực
lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.
Khi được Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu hỏi nên rút quân theo trụclộ
nào, Tướng Phú đã trình bày với Tổng
thống Thiệu rằng các quốclộ chính nối trong khu vực Cao
nguyên đã bị Cộng quân cắt đứt,chỉ còn
liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc
lộ 14 rẽ raphía nam cách thị xã Pleiku chừng 32
km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy
Hòa (tỉnh lỵ Phú Yên). Kế hoạchchọn liên tỉnh
lộ 7B đã không được sự đồng ý của Đại tướng
Viên vì ông cho rằng đưa một quân đoàn
di chuyển trên một đoạn đườngdài hơn 250 cây số
mà không rõ tình hình an ninh
là một việc “quásức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối
cùng Tướng Viên cũng không tìm ra được một
con đường nào khác nên kế hoạch của tướng
Phú đã đượcchấp thuận.
* Một chi tiết
đặc biệt về lệnh triệt thoái Cao nguyên: Chủ lưc
quân rút, Địa phương quân ở lại…
Trên đường trở lại
Pleiku, Tướng Phú đã tâm sự với thiếu tá
Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí của tư lệnh Quân
đoàn 2, là trong buổi họpông đã khẩn khoản
xin Tổng thống Thiệu cho ông được tử thủ giữPleiku, nhưng đề nghị
của ông đã không được chấp thuận. Một chitiết đặc
biệt đã được Tướng Phú kể lại cho Thiếu tá Phạm
Huấn vớinội dung như sau: Trong cuộc họp, Tổng thống Thiệu căn dặn
tướngPhú rằng lệnh triệt thoái là tối mật, từ cấp
tỉnh trưởng/tiểu khutrưởng trở xuống không được biết, có
nghĩa là các lực lượng Địaphương quân vẫn ở lại
chiến đấu, vẫn tiếp tục làm việc với tỉnhtrưởng, quận trưởng.
Chỉ có toàn bộ chủ lực quân gồm Bộ binh,Pháo
binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân
là phải triệt thoái.
Trước quyết định của Tổng
thống Thiệu, Tướng Phú đã lo lắng vàhỏi lại: Thưa
Tổng thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo
binhrút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nỗi
khi Cộng quân đánh?Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh
Pleiku, Kontum, và gia đình anh em binhsĩ? Tổng thống
Thiệu trả lời: Thì cho thằng Cộng sản số dân dó.Với
tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo
phòng thủ, giữ được những vùng dân cư đông
đúc…mầu mỡ hơn là bị kẹt quá nhiều
quâtrên vùng Cao nguyên! (Cuộc triệt
thoái Cao nguyên, tác giả PhạmHuấn, xuất bản 1987,
dòng thứ 1 đến dòng thứ 6, trang 86).
Về phần Đại tướng Cao Văn
Viên, khi về đến Sài Gòn, ông đã
chomời Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 bộ Tổng
Tham Mưu(TTM) và báo cho vị trưởng phòng
này về các chi tiết đã được bàntrong buổi
họp tại Cam Ranh. Tham mưu trưởng Bộ TTM là trungtướng Đồng Văn
Khuyên lúc ấy đang công tác ở ngoại quốc.
Cuộchành quân cũng được giữ bí mật tối đa do
chính Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho viên tư lệnh chiến
trường nên Bộ TTM không đượcquyền ra lệnh làm
gì hết, kể cả việc tái phối trí các đơn
vịKhông quân và lực lượng tăng phái cho
Quân đoàn 2 tại Pleku và Kontum.
Vào thời gian
này, tại vùng Kontum và Pleiku chỉ còn 1
tiểu đoàncủa Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB, 5
Liên đoàn Biệt Động QuânQK 2, thiết đoàn 21 M
48, hai tiểu đoàn pháo binh 175 mm và
cácđơn vị yểm trợ như Liên đoàn 20 Công Binh
Chiến Đấu, Liên đoàn231 Yểm trợ Tiếp Vận, kho đạn của
Không quân và Lục quân vớikhoảng 20
ngàn tấn đạn, kho tồn trữ nhiên liệu với trữ lượng
dùngtrong 45 ngày và nhu yếu phẩm và thực
phẩm đủ dùng trong haitháng. Nhiệm vụ của Tướng
Phú là làm sao đưa hết được các đơn
vịvà tiếp phẩm này về Nha Trang và để từ đó
mở cuộc phản công táichiếm lại Ban Mê Thuột.
* Cuộc họp của
Thiếu tướng Phú về kế hoạch rút quân:
Theo lời ban tham mưu của
Tướng Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10chiều
ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng
Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại chiếc bunker của
ông, vớithành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần
Văn Cẩm, Phụ tá Hànhquân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc
Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân,Đại tá
Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 1(gồm
5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê
Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 &
Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,tướng Phú
đã thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng choDại
tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình
bày tóm tắt nội dungcuộc họp tại Cam Ranh và chỉ
định chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và tânChuẩn tướng Phạm Duy
Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao
nguyên.
Kế hoạch cuộc chuyển
quân được phổ biến vắn tắt: Tướng Phú và Bộ tư lệnh
nhẹ sẽ đi Nha Trang trước bằng trực thăng. Chuẩn tướngTất chỉ huy
toàn bộ các đơn vị tham gia cuộc triệt thoái
từKontum và Pleiku về Tuy Hòa theo tỉnh lộ 7 B. Đại
tá Lê Khắc Lýđược giao trách nhiệm điều động
bộ tham mưu quân đoàn và các đơnvị yểm trợ.
Toàn bộ cuộc hành quân đặt dưới sự giám
sát của chuẩn tướng Trần Văn Cẩm.
Theo kế hoạch do Tướng
Phú đề ra, Liên đoàn 20 Công binh chiến đấu
sẽ cho một đơn vị đi đầu để làm thành phần tiên
phong cónhiệm vụ sửa chữa cầu cống, đường sá khi cần
thiết. Các đơn vị thiết giáp được giao nhiệm vụ yểm trợ
đoàn xe vận tải. Các đơn vị Địa phương quân
và Nghĩa quân trong khu vực đoàn quân đi qua
chịu trách nhiệm an ninh trục lộ. Đi cuối cùng là
hai Liên đoàn Biệtđộng quân và 1 đơn vị thiết
giáp. Các đơn vị cuối cùng này sẽ rờiPleiku
vào ngày 19/3/1975.
Do cuộc chuyển quân
rầm rộ với nhiều đơn vị và hàng trăm xe vậntải
cùng nhiều quân cụ nặng nên thời gian chuẩn bị phải
mất hết 4ngày liên tiếp, bắt đầu từ ngày 16
tháng 3/1975.
Sau khi họp với
các đơn vị trưởng, sáng ngày 15 tháng 3,
Thiếutướng Phú cùng với một số sĩ quan được chọn lựa
trong ban thanmưu bay về Nha Trang để tái tổ chức lại bộ tư lệnh
Quân đoàn ở đây. Cũng trong ngày này,
Chuẩn tướng Cẩm và vài sĩ quan thân cận bayđi Tuy
Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân di chuyển từ
Pleiku về. Cũngtrong ngày này, đã có một số
quân xa bắt đầu rời Pleiku theo cáctoán nhỏ. Như
đã trình bày ở trên, từ khi có cuộc
tái phối tríđược nêu ra trong cuộc họp cho đến khi
bắt đầu thực hiện, tất cảđều tiến hành một cách bí
mật, không một lời nào được tiết lộ, kểcả không cho
các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.
Tỉnh trưởng Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước,
còntỉnh trưởng Kontum thì đến phút chót mới
biết được và ông đã tháptùng theo
đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị CQ bắn chết.
Ngày 16
tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân
đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xã Pleiku như
đã trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời
khỏi bến thì tin này được dân chúng biết.
Vậy là mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ
phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang
theo bất cứ thứ gì có thể mang theođược. Sau đó
đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một
đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc
theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguy hiểm. Cuộc chuyển quân của
Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu…
Ngày
16-3-1975: Quân Đoàn 2 Triệt Thoái Khỏi Cao
Nguyên
Vương Hồng Anh
* Ngày
16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt
thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống
VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh
ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh
Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã cho lệnh triệt
thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2
tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần.
Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân
Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân
Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các
đơn vị triệt thoái.
(Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3,
Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh
bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân
đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày
này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành
quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ
quan thân cận bay đi Tuy Hòa để chuẩn bị đón
đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum
về) .
Theo lịch trình
triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng
3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của
Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự
yểmtrợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra
khỏi thị xãPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của
đoàn quân triệt thoái.
Sau thành phần đi
đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như
sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh,
Pháo binh còn lại cùng Quân y với trên
250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do
Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày
18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh,
một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng
200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt
thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ.
Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động
quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.
Theo lộ trình, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về
phía Nam củaQuốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và
Liên tỉnh lộ 7 cách thị xãPleiku khoảng 33 km đường
chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn
quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B
vềhướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về
Tuy Hòa.
* Tổng tham mưu
trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ
7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2.
Trong phần trình bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB
đã lược trình về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt
thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau
đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh
này.
Tại cuộc họp Cam Ranh,
khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm
trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không
đồng ý, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa
một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường
dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ
tình hình an ninh lộ trình là “quá
sức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên
cũng không tìm ra được một trục lộ nên kế hoạch của
Thiếu tướng Phú đã được Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu
và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.
Nhận định về địa
hình liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên
phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14
đi Hậu Bổn còn dùngđược, đoạn còn lại không
biết tình hình giao thông như thế nào.Tuy
nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết
trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn
đã bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa
chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây
Tuy Hòa thì nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại
Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn
dày dặc.
Trong khi Đại tướng
Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì
Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo
Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc
lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa
sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm
và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải
thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú
trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông
có dự tính như thế.
Thiếu tướng Phú
chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua
sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu
trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu
tướng Phú.
Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển
quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng
“đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ,
quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường
dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng
già trên vùng Cao nguyên mà
không biết tình hình an ninh con đường đó ra
sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được
yếu tố bất ngờ hay không là do khả năng di chuyển nhanh
gọn. Nhưng là một người chỉ huy sáng suốt thì
lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước
tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng
khắp tại khu vực đó”.
Cũng trong buổi họp tại
Cam Ranh, Đại tướng Viên đã nhắc nhở Thiếu tướng
Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng
như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng
đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn
rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947.
Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh
đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh
đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh
đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị
đánh tan nát tại chân núi xung quanh
Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế
và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển
quân đoàn 2 thì vào tháng 6/ 1954,
Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp
Pháp tại ĐôngDương đã bị thảm sát trên
Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại
cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo
Đại tướng Viên, đó là “những bài học
máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy
nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở
củavùng Cao nguyên là vậy”.
Về tình
hình Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày
11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam
Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên
quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu
tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột
không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng
Phú không khẳng định được điều này nên
không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng
Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh. Quay sang Đại
tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng
nào có thể tập trung đưa lên giải vây
không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu
trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng
là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được
phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng
Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù
và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở
Quân khu 1 từ năm 1972.
Theo lời Đại tướng
Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như
vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho
Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho
mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế
nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm
gì.Khi cuộc họp chấm dứt, thì Tướng Phú xin
riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng
ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm
Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại
sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau: “Tôi
không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe
ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh
chiến trường thì không có bằng chứng nào
chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối
ngay và nói rằng khi nào tái phối
trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự
nhưng thấy tôi nói có lý nên
không đồng ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng
Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại
tá Phạm Duy Tất.
NGÀY19-3-1975:
TT
Thiệu
Họp
Bàn
Kế Hoạch Giữ Đà Nẵng
Vương Hồng Anh
* Cuộc họp mật
ngày 19 tháng 3/1975 bàn về số phận 5 tỉnh miền
Trung thuộc Quân khu 1.
Sau 2 cuộc họp mật của Hội đồng An ninh Quốc gia tại Dinh Độc Lập
vào các ngày 11 và 13 tháng 3/1975,
vào ngày 19 tháng 3/1975, Tổng thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu lại mở cuộc họp đặc biệt để duyệt xét tình
hình Quân khu 1. Cuộc họp bắt đầu 11 giờ, ngoài
các nhân vật đã tham dự hai cuộc họp trước (Tổng
thống Thiệu, Thủ tướng Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung
tướng Đặng Văn Quang), còn có Phó Tổng thống Trần
Văn Hương tham dự. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh
Quân đoàn 1/Quân khu 1, cũng được gọi về Sài
Gòn để dự cuộc họp này.
Theo lệnh của Tổng thống
được chuyển đến Tư lệnh Quân đoàn 1 trước đó, Tướng
Trưởng trình bày về kế hoạch rút quân của
Quân khu 1 tập trung về Đà Nẵng để bảo vệ thành phố
trọng yếu này. Theo ghi nhận của Tướng Viên, kế hoạch của
Tướng Trưởng rất chu đáo và được tiến hành theo
hai phương cách: phương cách thứ nhất sử dụng Quốc lộ 1.
Theo đó thì có lực lượng VNCH từ Huế và từ
Chu Lai cùng một lúc rút về Đà Nẵng. Phương
cách thứ hai: nếu địch cắt Quốc lộ 1 thì sẽ rút
quân về tập trung tại ba nơi khác nhau: Huế, Đà
Nẵng, Chu Lai. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là nơi
tập trung tạm thời để sau đó các đơn vị được hải vận về
Đà Nẵng, kết thúc cuộc bố trí giữ Đà Nẵng.
Như vậy, Đà Nẵng sẽ trở thành ốc đảo trong lòng
địch để cố thủ bằng 4 sư đoàn (Sư đoàn 1, 2, 3 Bộ binh,
Sư đoàn Thủy quân Lục chiến) và 4 liên
đoàn Biệt động quân.
Sáu giờ chiều ngày 19 tháng Ba, Trung tướng Trưởng
trở lại Đà Nẵng. Khi phi cơ ông vừa hạ cánh,
thì ông nhận được báo cáo khẩn cấp của Trung
tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó Quân đoàn 1,
gọi từ bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 ở Huế
vào. Tướng Thi báo rằng đại bác 130 ly của địch
đang nã vào bản doanh của ông và CQ đang
tung đợt tấn công quy mô lớn bằng xe tăng để tìm
cách vượt qua vòng đai phòng thủ của lực lượng
VNCH tại sông Thạch Hãn.
* Đại tướng Cao
Văn Viên phân tích các quyết định của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu về vận mệnh VNCH
Trước khi đưa ra những quyết định trong cuộc họp ngày 19
tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã 2 lần họp
mật với Hội đồng An ninh Quốc gia để duyệt xét về tình
hình tại Cao nguyên và miền Trung. Sau đây
là những ghi nhận và phân tích của Đại tướng
Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH về những
cuộc họp này.
Theo lời của Đại tướng
Viên, một ngày sau khi Cộng quân tổng tấn công
vào Ban Mê Thuột, sáng ngày 11 tháng
Ba, 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời Thủ tướng
kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng Trần Thiện Khiêm, Đại
tướng Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng
Văn Quang, Phụ tá An ninh của Tổng thống, đến dinh Độc Lập để ăn
sáng và họp. Sau khi ăn và uống cà
phê xong, các nhân viên phục dịch đi hết, Tổng
thống đã lấy ra một tấm bản đồ có tỷ lệ nhỏ của Việt Nam
Cộng Hòa và bắt đầu nói đến tình
hình quân sự ở mỗi nơi. Sau đó, Tổng thống
nói thật rằng “tính ra thực lực của chúng ta
thì không thể nào giữ hết nổi lãnh thổ như
ý chúng ta được. Vì vậy chúng ta cần phối
trí lực lượng lại để phòng thủ những nơi nào
đông dân cư mà thôi và tăng cường bảo
vệ những nơi nào hiểm yếu.”
Nhắc lại quyết định của
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại tướng Viên đã ghi lại
trong hồi ký như sau: “Kết luận này làm
chúng tôi ngạc nhiên vì nói như vậy
tức là ông đã cân nhắc rất kỹ lưỡng. Dường
như ông chưa muốn công bố quyết định này nên
tỏ ý rằng chỉ cho ba chúng tôi tham dự bữa ăn
sáng này biết trước. Tổng thống Thiệu đã vạch ra
một bản đồ ghi những vị trí quan trọng. Đa số các vị
trí này đều nằm quanh Quân khu 3 và 4
cùng với hải phận của hai quân khu này. Chỉ một
vài nơi quan trọng mà hiện lúc ấy đang bị Cộng sản
chiếm và như vậy Quân đội VNCH phải ra sức tái
chiếm lấy bằng mọi giá. Sau cùng, lãnh thổ
mà Quân đội VNCH sẽ giữ gồm những nơi vựa lúa, đồn
điền cao su, khu kỹ nghệ, v.v. Chính phủ cần giữ những nơi
trù phú và đông dân đó.
Thêm nữa, ngoài thềm lục địa vừa mới khám
phá có dầu, và chính phủ xem đó
là những vùng yết hầu bất khả xâm phạm, nơi cần giữ
vững nhất là Sài Gòn, các tỉnh phụ cận
và vùng châu thổ sông Cửu Long.”
Tổng thống Thiệu đã nói nhiều về kế hoạch tái phối
trí vùng địa lý chánh trị, nhưng khi đề cập
đến Quân khu 1 và Quân khu 2 thì Tổng thống
không còn vẻ khẳng khái. Còn Cao
nguyên Trung phần thì Tổng thống vừa nói, vừa
dùng tay chỉ vào khu vực Ban Mê Thuột, quan niệm
rằng đó là nơi quan trọng hơn Pleiku và Kontum gộp
lại vì vị trí kinh tế và dân số. Những tỉnh
dọc duyên hải Quân khu 2 cũng quan trọng không
kém vì các tỉnh này có thềm lục địa
nhiều tiềm năng khai thác. Còn đối với Quân khu 1
thì ông chủ trương giữ vững những gì giữ được. Tại
đây, Tổng thống phác họa một kế hoạch nhiều giai đoạn
đánh dấu bằng đường ranh cắt bỏ dần để rút xuống
phía Nam. Tổng thống nói: “Nếu chúng ta đủ sức,
thì sẽ giữ đến Huế hay Đà Nẵng. Nếu không
thì rút về và giữ từ Chu Lai hoặc từ Tuy
Hòa trở vào.” Tổng thống nhấn mệnh: “Làm như vậy
chúng ta mới tái phối trí được khả năng
mình, giữ vững được các yếu điểm của lãnh thổ một
cách hữu hiệu và mới có cơ may phát triển
đất nước giàu mạnh được.” Cứ như vậy, Tổng thống Thiệu
nói hết ý định của mình, và cũng kể như
quyết định quan trọng. Thế nhưng dụng ý của toàn bộ kế
hoạch thì chưa rõ, nhưng chắc chắn sẽ tạo ra nhiều vấn
đề, nhất là về phương diện quân sự.
Với tư cách một
Tổng Tham mưu trưởng, Đại tướng Viên cảm thấy có bổn phận
phải lên tiếng. Sau đây là ý kiến của Đại
tướng Viên: “Tôi
(Đại
tướng
Viên)
nói
rằng khi tái phối trí
thì quả thật có hiệu quả phòng thủ tuy hệ quả của
nó không thể tránh khỏi, và tôi cũng
đã từng nghĩ đến tình trạng này từ lâu. Tuy
nhiên tôi chưa nói ra vì chưa phải
lúc. Trước hết, tái phối trí là trái
với chủ trương duy trì chính sách Quốc gia,
và thứ hai tôi đưa ra đề nghị đó thì
có thể bị nghĩ là có óc chủ bại. Duy
có điều tôi nhấn mệnh đến một sự tái phối
trí lúc này đã quá trễ và
không chắc thành công được. Ngoài ra
tôi không cho rằng quyết định này của Tổng thống sẽ
loại trừ được bất cứ chỉ trích không có lợi
nào. Dù sao, với tư cách Tổng tư lệnh Quân
đội, Tổng thống có toàn quyền và trách
nhiệm để đưa ra mọi quyết định ứng phó với cuộc chiến. Chắc
ông đã nắm vững những gì ông đang làm
chứ.”
Nhận xét về quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại
tướng Viên phân tích: “Cho dù quyết định này
có đi sai chính sách Quốc gia hiện hành đến
cách mấy, bản thân quyết định đó vẫn hợp lý
mà một nhà lãnh đạo có thể làm được.
Đã hai năm kể từ ngày Hiệp định Ba Lê được
ký kết, tình hình cứ suy sụp đến mức báo
động. Chỉ có thể phê bình Tổng thống là ở
điểm tại sao ông đợi lâu đến như vậy mới đưa ra quyết định.
Trong cuộc họp, ông không hề giải thích hay
có hướng dẫn nào về những bước cần thiết khi ông
quyết định như vậy. Dường như quyết định do thực tế bên
ngoài đưa tới.”
Cũng theo lời Đại tướng
Viên, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, ngày 13
tháng 3/1975, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã chủ tọa
một cuộc họp tại Dinh Độc Lập để duyệt xét kế hoạch tái
phối trí lực lượng tại Quân khu 1. Trung tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1 & Quân khu 1,
được gọi về Sài Gòn để tham dự cuộc họp này.Trong
buổi họp, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phân tích
tình hình chung của đất nước, nêu ra những
khó khăn mà chính phủ đang gặp phải khi thiếu
nguồn quân viện. Tổng thống không hy vọng Không
quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp Việt Nam Cộng
Hòa bị tổng tấn công. Tổng thống nhấn mệnh rằng trước
tình hình như vậy thì chỉ còn một
cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những
nơi hiểm yếu có nhiều tài nguyên quốc gia. Tại
Quân khu 1, khu vực trù phú cần phải giữ là
Đà Nẵng. Chi tiết mà Đại tướng Viên nêu ra
khác với lời kể của Trung tướng Trưởng với báo chí
(sau 1975) như sau:
trong cuộc họp ngày 13/3/1975, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho
Tướng Trưởng rút toàn bộ Quân đoàn 1 khỏi
Quân khu 1 và rút về Phú Yên, VNCH thu
gọn từ Phú Yên đến Hà Tiên.
Đại tướng Viên cho
biết: sau khi nhận chỉ thị của Tổng thống,Trung tướng Trưởng trở về
Đà Nẵng ngay trong ngày. Suốt trong 6 ngày tiếp
theo, dù tình hình Quân khu 1 trở nên
rất đáng ngại, thế nhưng Trung tướng Trưởng vẫn muốn giữ Huế
và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu 1. Sau khi
suy nghĩ và phân tích tình hình,
Tướng Trưởng đã gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt
trình bày ý kiến với Đại tướngViên nhờ xin
với Tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế
và Vùng 1. Cuối cùng Tổng Thống chấp thuận. Được
sự đồng ý của Tổng thống, Trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với
Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh Tiền phương Quân
đoàn, về kế hoạch phòng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh
phải giữ Huế thật vững. Thế nhưng chiều hôm đó, khi trở
lại Đà Nẵng, Tướng Trưởng nhận được mật lệnh do Đại tướng
Viên ký thừa lệnh Tổng thống là phải bỏ Huế.
NGÀY
23-3-1975:
Quốc
Lộ
1
Đoạn Huế-Đà Nẵng Bị Cắt Đứt
Vương Hồng Anh
* Cộng quân cắt đứt Quốc lộ 1, đoạn đường từ Huế đi Đà
Nẵng.
Ngày 23 tháng 3/1975, tình hình tại chiến
trường Thừa Thiên trở nên nghiêm trọng sau những trận
tấn công của Cộng quân trong 2 ngày 21 và 22
trên Quốc lộ 1, đoạn đường Huế-Đà Nẵng đi ngang địa phận
Quận Phú Lộc, quận ở cực Nam Thừa Thiên, gồm những
xã có địahình dọc theo Quốc lộ 1. Kịch chiến
đã diễn ra giữa Cộng quân và Trung đoàn 1/Sư
đoàn 1 Bộ binh được tăng cường Liên đoàn 15 Biệt
động quân. Khi trận chiến vừa xảy ra, lực lượng Bộ binh và
Biệt động quân nỗ lực giải tỏa áp lực của địch quân.
Với sự yểm trợ tối đa của Pháo binh và Không
quân VNCH, các đơn vị Cộng quân bị đẩy lùi ra
khỏi một số vị trí trong một thời gian ngắn, sau đó Cộng
quân lại tăng cường lực lượng và tổ chức các đợt
tấn công cường tập vào vị trí của Trung đoàn
1 Bộ binh và Liên đoàn 15 Biệt động quân..
Đến 2 giờ chiều, Liên đoàn 15 Biệt động quân
và Trung đoàn 1 Bộ binh đã phải rút lui để
bảo toàn lực lượng.
Ngày 23
tháng 3/1975, Sư đoàn 1 Bộ binh điều động lực lượng phản
công nhưng Cộng quân đã lập các chốt chận tại
Đá Bạc, và bám giữ các vị trí trọng
yếu trên Quốc lộ 1, để cắt đứt trục lộ vận chuyển của các
đơn vị VNCH từ Huế vào Đà Nẵng.
Cũng trong ngày 23
tháng 3/1975, CQ đã pháo kích vào
một số vị trí trong thành phố Huế và vòng
đai phụ cận. Các đợt pháo kích tiếp diễn suốt
ngày nhưng không có hiệu quả, các quả
pháo không rơi trúng vào các vị
trí quân sự. Tuy nhiên, tinh thần dân
chúng càng hốt hoảng hơn và thành phố Huế
bắt đầu hỗn loạn.
* Tư lệnh
Quân đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng duyệt
xét tình hình Huế
Trong ngày 23/3/1975, theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn
Viên, trước tình hình chiến sự diễn biến bất ngờ,
và Quốc lộ 1 không thể khai thông được, Trung tướng
Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu
1 cho lệnh rút lực lượng VNCH tại chiến trường Thừa Thiên
về lập phòng tuyến tạm thời tại Huế. Cũng trong ngày
này, tàu Hải quân được tăng cường để đón
dân tị nạn cùng thân nhân gia đình binh
sĩ vào Đà Nẵng.
Chiều 23 tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư
lệnh Quânđoàn 1, gọi Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh
Sư đoàn 1 Bộ binh, vào Đà Nẳng để duyệt xét
lại tình hình phòng thủ Huế. Tướng Điềm đã
báo cho Trung tướng Trưởng biết là Sư đoàn 1 Bộ
binh đang đối đầu với 3 sư đoàn chủ lực và 1 sư
đoàn pháo của Cộng quân.
*Từ phòng
tuyến Thạch Hãn đến phòng tuyến Huế.
Như đã trình bày, suốt đêm 19 và rạng
sáng ngày 20 tháng 3/1975, tất cả lực lượng
phòng thủ dọc theo bờ nam sông Thạch Hãn (tỉnh
Quảng Trị) kể cả Liên đoàn Địa phương quân, 1 tiểu
đoàn Biệt độn quân và vài chi đoàn
Thiết giáp đã rút về phòng ngự phía
Nam sông Mỹ Chánh. Về phòng tuyến Thạch Hãn,
trong hơn hai năm, kể từ khi có Hiệp định ngưng bắn Paris
ký ngày 27/1/1973, sông Thạch Hãn được xem
như là “ranh giới” của lực lượng quân sự hai bên.
Tại đây, có trạm hoạt động của Ủy hội Quốc tế và
là nơi được chọn để trao đổi tù binh.
Trước khi Cộng quân tấn công phòng tuyến Thạch
Hãn, vào 6 giờ chiều ngày 19/3/1975, Trung tướng
Trưởng từ Sài Gòn trở lại Đà Nẵng sau cuộc họp tại
Dinh Độc Lập. Khi phi cơ chở ông vừa hạ cánh, thì
ông nhận được báo cáo khẩn cấp của Trung tướng
Lâm Quang Thi, Tư lệnh phó Quân đoàn 1, gọi
từ Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 ở Huế vào.
Trung tướng Thi báo rằng đại bác 130 ly của địch đang
pháo kích vào bản doanh của ông và CQ
đang tung đợt tấn công quy mô lớn bằng xe tăng để
tìm cách vượt qua vòng đai phòng thủ của
lực lượng VNCH tại sông Thạch Hãn. Nhận được khẩn
báo của Trung tướng Thi, Trung tướng Trưởng liền báo
cáo cho Đại tướng Viên và yêu cầu cho
Quân đoàn 1 được giữ lại Lữ đoàn 1 Dù, đang
có mặt tại Đà Nẵng chuẩn bị về Sài Gòn. Đại
tướng Viên báo lại cho Tổng thống Thiệu. Là Tổng tư
lệnh tối cao của Quân lực VNCH, Tổng thống Thiệu chấp thuận
yêu cầu này với điều kiện: Lữ đoàn Dù được ở
lại nhưng Quân đoàn 1 không được sử dụng để tung
vào chiến trận. Theo phân tích của Đại tướng
Viên, thì khi quyết định cho Lữ đoàn 1 Nhảy
Dù ở lại Đà Nẵng, Tổng thống Thiệu muốn tạo niềm tin cho
dân chúng và giữ vững tinh thần chiến đấu của
các đơn vị khác.(Trong phiên họp tại Dinh Độc Lập
vào ngày 13/3/1975, Tổng thống Thiệu ra lệnh cho Trung
tướng Trưởng phải bỏ Huế. Trước đó vào ngày
12/3/1975, theo kế hoạch mới của Trung tướng Trưởng, Sư đoàn
Thủy quân Lục chiến đang hoạt động tại phía Đông
Quảng Trị sẽ thay Sư đoànNhảy Dù làm lực lượng
phản ứng cấp thời tại Vùng 1. Liên đoàn 14 Biệt
động quân được điều động ra Quảng Trị chuẩn bị thay dần Thủy
quân Lục chiến).
Sáng ngày
20 tháng 3/1975, Trung tướng Trưởng bay ra Bộ Tư lệnh Tiền
phương của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến cách Mỹ
Chánh, thị trấn ở phía Nam tỉnh Quảng Trị, khoảng 8 km.
Tại đây Trung tướng Trưởng đã gặp các chỉ huy của
các đơn vị trong khu vực, cùng họ duyệt lại tình
hình và bàn kế hoạch phòng thủ Hue, theo
quân lệnh mới nhất của Tổng thống Thiệu là phải
phòng thủ Huế với bất cứ giá nào, khác với
chỉ thị trước đó một ngày là phải bỏ Huế.
Trước ngày
21//3/1975, tình hình tại khu vực phía Nam
sông Mỹ Chánh và khu vực phụ cận Huế chưa đến nổi
quá xấu. Các đơn vị chủ lực quân và diện địa
vẫn còn nguyên vẹn, kỷ luật nghiêm minh và
tinh thần chiến đấu cao. Việc mất Quảng Trị tuy có ảnh hưởng
phần nào nhưng không làm cho tinh thần quân
sĩ nao núng. Dù sao thì dân chúng
đã bỏ đi trước đó do đó không gây trở
ngại cho các đơn vị khi giao tranh với Cộng quân. Hơn nữa
với 1 Lữ đoàn Thủy quân lục ứng chiến tại phía Nam
sông Mỹ Chánh và 2 Lữ đoàn Thủy quân
lục chiến đang là lực lượng tổng trừ bị tại Đà Nẵng
thì Quân khu 1 vẫn có các lực lượng
nòng cốt để tăng viện khi chiến trường sôi động. Sau buổi
họp, các cấp chỉ huy đều bày tỏ sự quyết tâm giữ
vững Huế.
Trên đường trở về
Đà Nẵng, Tướng Trưởng đã ghé vào bộ Tư lệnh
Tiền phương của Quân đoàn 1 tại Mang Cá, Huế. Sau
đó, ông cùng Tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh
phó Quân đoàn 1, đi một vòng thanh tra
các hệ thống phòng thủ trong thành phố Huế. Tinh
thần tướng Trưởng lúc đó rất phấn chấn vì sự bố
phòng bảo vệ Huế rất vững vàng. Đến 1 giờ 30 trưa, Tổng
thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng trên đài
phát thanh Sài Gòn và được đài Huế
tiếp vận. Ông hứa với dân chúng, đặc biệt với
dân chúng trong thành phố Huế, rằng quân đội
VNCH sẽ bảo vệ Huế bằng mọi giá. Sự việc Tổng thống Thiệu
lên tiếng trên đài phát thanh là điều
mà theo Tướng Trưởng nghĩ, tuy muộn màng, nhưng cũng rất
cần thiết.
Đặt chân xuống
Đà Nẵng vào chiều tối, Trung tướng Ngô Quang Trưởng
nhận được một công điện ghi “Mật”. Đây là lệnh của
Tổng thống VNCH do Bộ Tổng Tham Mưu chuyển đến. Theo phân
tích của Đại tướng Cao Văn Viên, thì ngược với
những gì đã tuyên bố trên Đài
phát thanh, nay Tổng thống cho vị Tư lệnh Quân đoàn
1/Quân khu 1 được “tự do hành động”. Vì không
thể nào phòng thủ nổi ba căn cứ Huế, Đà Nẵng, Chu
Lai cùng một lúc, nên Tổng thống khuyên Trung
tướng Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 tuỳ nghi ứng
phó và làm sao chỉ giữ một mình Đà
Nẵng mà thôi.
NGÀY
25-3-1975: Lực Lượng Quân Khu 1 Rút Khỏi Huế
Vương Hồng Anh
* Diễn tiến về kế hoạch rút quân khỏi Huế
ngày 25 tháng 3/1975.
Theo hồi ký của Đại
tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH,
vào ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực
lượng của Quân đoàn 1/Quân khu 1 đều tập trung tại
ba địa điểm: Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phiá Bắc
thành phố Huế và phiá Nam Chu Lai. Nhận định về
cuộc rút quân của Quân đoàn 1/Quân khu
1, Đại tướng Viên ghi nhận rằng “hành trình cuộc
rút về ba địa điểm này vô cùng gian khổ
và đắt giá. Phần lớn binh sĩ đều rã rời. Đã
bao lâu nay, họ chiến đấu hết trận này đến trận
khác, hết năm này đến năm khác, nhưng chưa bao giờ
họ cảm thấy nản lòng bằng giờ phút ấy. Hy vọng có
bàn tay nào đó giúp đỡ để họ đánh
chiếm lại những vùng đất bị lọt vào tay địch, để đủ sức
đương cự với kẻ thù nay đã tan biến như chuyện đời xưa.”
Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, trong giờ
phút nản lòng đó, thì một bức điện
khác cũng của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu gửi đi cho Bộ Tư
lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 , trong đó, Tổng
thống chỉ thị lực lượng tại 3 nơi tập trung này phải rút
về Đà Nẵng để tổ chức phòng thủ bảo vệ thành phố
trọng yếu này. Nhận được chỉ thị của Tổng thống, Trung tướng
Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu
1 ra lệnh cho Sư đoàn 1 Bộ binh và các đơn vị
khác tại Huế phải rút về Đà Nẵng. Cùng
lúc, Trung tướng Trưởng cho Sư đoàn 22 Bộ binh
cùng với lực lượng Tiểu khu Quảng Ngãi, rút về đảo
Ré, nằm ngoài khơi cách Chu Lai chừng 20 dặm.
Tại Huế, các đơn
vị của Sư đoàn 1 Bộ binh phòng ngự ở phía Bắc
và khu vực cận sơn ở phía Đông thành phố Huế
đã được lệnh rời bỏ phòng tuyến và chuyển
quân về gần Huế để cùng với Bộ Tư lệnh và
các đơn vị yểm trợ rút quânkhỏi chiến trường Trị
Thiên. Trong khi đó, các tiểu đoàn Bộ
binhvà Biệt động quân đang án ngữ phòng
tuyến dọc trên Quốc lộ 1 được lệnh di chuyển về bờ biển và
tập trung tại các điểm hẹn để tàu Hải quân
vào đón.
Theo kế hoạch tổng
quát, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 doTrung
tướng Lâm Quang Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động
và kiểm soát cuộc rút quân này. Về
phương tiện vận chuyển, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1
Duyên hải do Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm tư lệnh
có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu để chở tất cả các
đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến, Biệt
động quân và lực lượng quân sự của hai tiểu khuThừa
Thiên và Quảng Trị vào Đà Nẵng. Bộ chỉ huy
Quân vận Quân khu1 sẽ sử dụng LCU để đưa các đơn vị
từ bờ ra tàu, Công binh sẽ lập những cầu phao tại
các cửa sông để đoàn quân đi qua.
* Những biến cố
xảy ra trong hành trình rút quân.
Theo ghi nhận của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư
đoàn Thủy Quân Lục chiến, do lệnh rút quân
quá nhanh, các đơn vị không có thời gian
chuẩnbị nên kế hoạch rút quân đã không
thể thực hiện đúng theo thờibiểu. Cũng theo lời Thiếu tướng
Lân, khi Trung tướng Trưởng quyết định cho rút quân
khỏi Thừa Thiên và thành phố Huế thì Thủy
quân Lục chiến có Lữ đoàn 369 đang hoạt động tại
chiến trường này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 đóng tại
căn cứ Tân Mỹ ở cửa Thuận An, 2 tiểu đoàn đang
phòng thủ tại phòng tuyến An Lỗ, cách trung
tâm thành phố Huế khoảng 17 km, tiểu đoàn thứ ba
đang phòng thủ ở phía Bắc quận Hương Điền và ở
phía Nam của sông Mỹ Chánh.
Trước tình
hình đó, nhiều đơn vị đã tự tìm ra
cách rút quân bằng phương tiện tự túc. Một
đơn vị Thủy quân Lục chiến rút theo Quốc lộ 1 để vượt qua
đèo Hải Vân vào Đà Nẵng đã bị Cộng
quân phục kích chận đánh và bị tổn thất
nặng. Một số đại đội Thủy quân Lục chiến và bộ chỉ huy Lữ
đoàn 369 do Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng chỉ huy,
từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển để về hướng Đà
Nẵng.Trên đường đi, đoàn quân đã được LCU
và tàu Hải quân vào đón.Trong khi
đang đứng trên bờ để điều động quân sĩ lội ra tàu ơ
ûngoài biển, Đại tá Lương đã bị thương ở
chân.
Một tiểu đoàn Thủy
quân Lục chiến và một số đơn vị Bộ binh cũng rút
theo đường biển nhưng khi đến phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền
thì gặp phải con sông chắn ngang quá rộng, trong
khi phía bên kiasông đã bị Cộng quân
chiếm giữ. Một số chiến binh quyết vượt qua sông nhưng đã
bị tử thương do đạn Cộng quân bắn sang. Theo ước tính của
Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy quân Lục
chiến, thì chỉ có một số nhỏ chiến binh Thủy Quân
vào đến Đà Nẵng, số đông còn lại bị tử
thương vì trúng đạn pháo kích hoặc bị kẹt
lại ở Huế. Những người bị kẹt lại đã lập thành từng
phân đội quyết tử với Cộng quân cho đến khi hết đạn.
Về cuộc chuyển quân
bằng hải vận, Đại tướng Cao Văn Viên cho biết: trong ngày
rút quân, biển động mạnh nên tàu Hãi
quân đến trễ. Cầu phao tại cửa sông cũng chưa hoàn
tất kịp để sử dụng. Đến trưa thì thủy triều lên cao,
không làm sao qua được. Cũng vào thời gian
đó, Cộng quân biết có cuộc chuyển quân
nên bắt đầu tập trung hỏa lực pháo binh bắn dồn dập
vào các vị trí ẩn quân tại cửa Tư Hiền
cùng tại nhiều điểm hẹn để tàu đến đón. Bộ Tư lệnh
Tiền phươngQuân đoàn 1 từ Mang Cá chuyển về đặt tại
căn cứ Tân Mỹ cũng bị pháo kích nặng. Nhận định
tổng quát về cuộc rút quân khỏi Huế, Đại tướng Cao
Văn Viên ghi nhận rằng trong cuộc hành trình triệt
thoái này, thì “kỷ luật không còn duy
trì nổi. Do đó, chỉ có 1/3 số quân
nhân về đến Đà Nẵng được. Nhưng khi về đến Đà Nẵng,
thì họ tự động bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình
và thân nhân. Chỉ còn Thủy quân Lục
chiến là giữ được trọn vẹn tình hình.”
Về đoàn quân của Sư đoàn 1 bộ binh, các tiểu
đoàn của các Trung đoàn1,3, 51 và 54 Bộ
binh và các đơn vị thống thuộc như Thiết giáp,
Pháobinh, cũng lâm vào tình cảnh như Lữ
đoàn 369 TQLC. Một số được tàu Hải quân chở, một số
khác mở đường máu ven theo quốc lộ 1 và hoặc ven
theo biển phần lớn đã hy sinh ngay trên đường rút
quân
* Sư đoàn
1 Bộ Binh vĩnh biệt chiến trường Quảng Trị-Thưà Thiên.
Trở lại với tình hình Sư đoàn 1 Bộ binh, một trung
tá trưởng phòng của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh
(không muốn nêu tên) đã kể lại diễn tiến những
giờ phút cuối tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ở trong
căn cứ Giạ Lê. Vị trung tá này nói ông
không thể nào quên được buổi họp cuối cùng để
nghe Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, phổ
biến lệnh rút quân. Từ vị tư lệnh phó, tham mưu
trưởng cho các sĩ quan trưởng phòng, trưởng ban tham mưu
như chết lặng khi nghe Thiếu tướng Điềm nói: Sư đoàn 1 Bộ
binh có lệnh phải rút khỏi Huế. Và chỉ gần một giờ
sau, cảnh tượng đó cũng đã diễn ra tại các bộ chỉ
huy trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, Thiếtđoàn Kỵ
binh và các tiểu đoàn yểm trợ.
Là một đại đơn vị
đầu lòng của Quân lực VNCH, thành lập ngày 1
tháng 1/1955 trên sự qui hợp 3 Liên đoàn
chiến thuật lưu động, Sư đoàn 1 Bộ Binh với danh hiệu đầu
tiên là Sư đoàn 1 Dã chiến rồi
đổithành Sư đoàn 1 Bộ binh từ 1959, trong hơn 20 năm từ
ngày thành lập cho đến ngày được lệnh rút
quân khỏi chiến trường Trị Thiên,Sư đoàn 1 Bộ binh
là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả
quân nhân thuộc Sư đoàn được mang giây biểu
chương Bảo Quốc Huân Chương màu tam hợp. Suốt 20 năm trấn
giữ tuyến đầu của Việt Nam Cộng Hòa, Sư đoàn 1 Bộ Binh
là hình ảnh của sự bảo bọc, gìn giữ Huế trong suốt
những năm dài lửa đạn.
NGÀY
26-3-1975: Mỹ Cử Đặc Sứ Đến SG Quan Sát Tình Hình
Vương Hồng Anh
*Đại tướng
Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân, Đặc sứ của Chính phủ Mỹ,
đến Sài Gòn họp bàn tình hình chiến
sự
Ngày 26 tháng 3/1975, sau khi lực lượng VNCH triệt
thoái khỏi Kontum, Pleiku, Phú Bổn (Quân khu 2),
các sư đoàn chủ lực của CSBV gây áp lực nặng
quanh vòng đai Đà Nẵng, các quận phía
Tây tỉnh Quảng Nam, và các tỉnh duyên hải của
Quân khu 2 (Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa). Cũng trong ngày này, chính phủ Hoa Kỳ
đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục
quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình
hình. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng
phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư
lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng
2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại
Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau
cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).
Trước khi Đại tướng
Weyand đến Việt Nam, vào cuối tháng 2/1975, ông
Eric Von Marbod, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ,
đã đến Việt Nam. Lúc đó, CSBV chưa khởi động cuộc
tấn công vào Ban Mê Thuột. Trong thời gian viếng
thăm VN, ông Marbod đã gặp và trao đổi ý
kiến với Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân
lực VNCH, về tình hình chiến sự. Trong cuộc tiếp
xúc với vị Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Đại
tướng Cao Văn Viên đã yêu cầu Bộ Quốc phòng
Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào mà Không
quân Việt Nam có thể sử dụng được. Đó là
loại bom 15 ngàn cân Anh có tên là bom
bạch cúc (Daisy Cutter) mà Không quân Hoa Kỳ
thường dùng thả bằng phi cơ C-130 để khai quang dọn bãi
đáp trong các khu vực rừng già. Thế nhưng, gần đến
cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp ứng yêu cầu của Bộ Tổng
Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm của Đại tướng Weyand.
* Các cuộc
tiếp xúc giữa Đại tướng Weyand và Đại tướng Viên.
Trong thời gian Đại tướng Weyand thăm Việt Nam, Bộ Tổng Tham mưu
Quân lực VNCH đã không có buổi thuyết
trình chính thức nào dành cho Đaị tướng
Weyand, nhưng giữa Đại tướng Weyand và Đại tướng Viên
đã có những cuộc tiếp xúc bàn luận về
tình hình và trao đổi ý kiến về tình
hình chiến cuộc. Trong các lần tiếp xúc, Đại tướng
Cao Văn Viên đã cho Đại tướng Weyand biết những khó
khăn mà Quân lực VNCH đang gặp phải và chỉ
yêu cầu một điều duy nhất: Xin Không quân Hoa Kỳ sử
dụng B-52 để đánh vào những nơi tập trung quân
và các căn cứ lộ thiên mà Cộng quân
vừa thiết lập. Tướng Viên nói rằng nếu có được B-52
thì sự tự tin và tinh thần chiến đấu của quân sĩ sẽ
được phục hồi nhanh chóng.
Trước yêu cầu của Đaị tướng Cao Văn Viên, tướng Weyand giải
thích cho vị Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH biết
là “bất cứ hình thức can thiệp mới nào của Mỹ tại
Việt Mam cũng đều phải được sự chấp thuận của Quốc hội Hoa Kỳ”, do
đó yêu cầu của Đại tướng Cao Văn Viên rất ít
hy vọng được chấp thuận.
* Cuộc gặp gỡ
giữa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Weyand
Phái đoàn của Đại tướng Weyand sau đó cùng
với Đại sứ Hoa Kỳ đến thăm chính thức Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu tại Dinh Độc Lập. Trong khi trao đổi ý kiến với Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu, phái đoàn Hoa Kỳ đưa ra các điểm
chính sau đây:
-Chính phủ VNCH nên giải thích cho dân
chúng biết tình hình để người dân
không còn lo sợ bởi những tin đồn thất thiệt do địch cố
tình tung ra. Các nhà lãnh đạo VNCH
nên xuất hiện nhiều hơn trên truyền hình cho
dân chúng biết mặt.
-Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH cần được trao thêm nhiều
quyền hạn hơn trước.
-Quân lực VNCH nên tìm một chiến thắng, dù
thật nhỏ, để tạo điều kiện cho Chính phủ Hoa Kỳ xin Quốc hội
duyệt thêm 300 triệu đô quân viện bổ sung. Theo nhận
xét của Đại tướng Weyand, Sư đoàn 5 CSBV tại vùng
Mũi Két là một mục tiêu tốt để Quân lực VNCH
tạo một chiến thắng “thật ngoạn mục”.
-Vấn đề di tản dân tị nạn nên được giải quyết sớm. Nhất
là phải chú tâm đến các thân
nhân gia đình binh sĩ. Thành phần này cần
sớm được đưa ra khỏi vùng nào có nguy cơ sẽ xảy ra
chiến trận.
Tất cả những vấn đề
liên quan chính phủ và dân chúng đều
được thảo luận giữa Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và
phái đoàn Hoa Kỳ. Theo lời kể của Đaị tướng Cao Văn
Viên, vấn đề cho Bộ Tổng tham mưu có thêm quyền hạn
không được bàn đến nữa vì đây là một
vấn đề rất tế nhị và chỉ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mới
làm được điều đó nếu ông muốn.
Về đề nghị Quân lực
VNCH phải tạo một chiến thắng, Đại tướng Cao Văn Viên hoàn
toàn đồng ý nhưng ông nhận định rằng muốn
làm cũng không làm được vì Bộ Tổng Tham mưu
không còn lực lượng nào trong tay để tiêu
diệt sư đoàn 5 CSBV, trong tình hình này,
phải chờ một cơ hội thuận tiện mới có thể làm được.
Trong cuộc họp, Đaị tướng
Cao Văn Viên nhắc lại yêu cầu của ông là xin
Không quân Hoa Kỳ sử dụng B-52 oanh tạc các nơi địch
tập trung quân. Theo Đại tướng Viên, chỉ bằng cách
đó mới có hiệu quả, mới làm cho tinh thần
quân dân Việt Nam lên cao được. Tướng Viên cũng
đã trình bày cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
và phái đoàn Hoa Kỳ những nỗ lực của bộ Tổng tham
mưu Quân lực VNCH trong hoàn cảnh không được sự yểm
trợ hỏa lực của B-52. Suốt trong vài tháng cuối của cuộc
chiến, Bộ Tổng Tham mưu QL.VNCH đã chỉ thị cho Không
quân dùng phi cơ C-130 vận tải để thi hành nhiệm vụ
yểm trợ chiến thuật, tăng cường hỏa lực.
Khi được sử dụng để thi
hành nhiệm vụ chiến thuật, mỗi C-130 mang theo tám
bánh thùng dùng đựng JP-4 chứa đầy dầu phế thải.
Phi cơ bay trên độ cao từ 15 đến 20 ngàn feet. Mỗi lần phi
cơ bay qua và bom nổ, binh sĩ dưới đất lấy làm vui mừng.
Được hướng dẫn bằng vô tuyến từ dưới đất nên rất
chính xác, mỗi đợt thả chỉ cách nhau 150 đến 450
mét.
Mỗi C-130 có thể
chở đến 8 bành bom loại thùng GP 81-82 (tương đương với
250-500 cân anh) hay ba bành loại GP-117 (tương đương với
750 cân Anh. Binh sĩ đặt tên cho các phi vụ
này là “tiểu B-52″ hay B-52 Việt Nam. Lần đầu tiên
khi loại bom này được thả tại Tây Ninh, dân
chúng tưởng đó là B-52 của Mỹ thả. Vậy là
tin đồn Không quân Mỹ can thiệp yểm trợ Quân lực VNCH
đã được loan đi thật nhanh.
Về việc di tản thân
nhân gia đình binh sĩ rời những nơi có chiến trận,
Đại tướng Viên cho rằng việc làm này thường
có tác dụng ngược. Tướng Viên nêu ra nhận
xét: nếu không có thân nhân tại
đó, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sẽ giảm sút. Vị Tổng
Tham mưu trưởng Quân lực VNCH nhắc đến một số kinh nghiệm trong
quá khứ, nhất là kinh nghiệm của trận Mậu Thân 1968
và tại các tiền đồn xa xôi, vợ con binh sĩ
là những người giúp tải đạn, tải thương và thậm
chí sử dụng cả đại liên rất hữu hiệu.
Những đề nghị của Đại
tướng Viên được phái đoàn Hoa Kỳ ghi nhận,
và khi Đại tướng Weyand rời Việt Nam thì Cộng quân
đang bao vây phòng tuyến Phan Rang và tấn
công vào mặt trận Long Khánh. Trong tình
hình chiến sự sôi động, nhiều giới chức của VNCH hy vọng ở
sự can thiệp của Không quân Hoa Kỳ để chận đứng cuộc tấn
công lớn của Cộng quân, dù biết rằng đó
là một hy vọng vô cùng mong manh.
30
NĂM
NHÌN
LẠI,
NGÀY
29-3-1975: Quân Đoàn I
Rời Đà Nẵng
Vương Hồng Anh
* Diễn tiến về
cuộc triệt thoái lực lượng Quân đoàn 1/Quân
khu 1 khỏi Đà Nẵng
Sau 10 ngày trải qua nhiều diễn biến đột ngột về chiến sự , với
những cuộc triệt thoái lực lượng tại 5 tỉnh để tập trung về
Đà Nẵng, đêm 28 rạng ngày 29 tháng 3/1975,
toàn bộ lực lượng Quân đoàn 1/Quân khu 1 được
lệnh rút khỏi Đà Nẵng , sau khi Trung tướng Ngô
Quang Trưởng báo cáo tình hình Đà
Nẵng cho Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn
Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH. Cuộc triệt
thoái bằng đường biển đã diễn ra hỗn loạn do Cộng
quân đã pháo kích vào bãi biển
Đà Nẵng và các vị trí tập trung các
đơn vị triệt thoái. Sau đây là diễn tiến cuộc triệt
thoái của lực lượng Quân đoàn 1/Quân khu 1
khỏi Đà Nẵng trong ngày 29/3/1975 theo ghi nhận của Đại
tướng Cao Văn Viên.
Hồi ký của Đại
tướng Cao Văn Viên ghi rằng vào tối 28/3/1975, Cộng
quân pháo kích vào phi trường Đà
Nẵng, căn cứ Hải quân và nhiều vị trí quân sự
khác. Tất cả các trái đạn pháo đều từ hướng
thung lũng Phước Tường. Đại bác 175 mm của Quân
đoàn 1 phản pháo và được phi cơ quan sát
điều chỉnh tọa độ nhưng không có hiệu quả cao. Trung tướng
Trưởng báo cáo tình hình cho Đại tướng
Viên, và cũng gọi điện thoại tường trình cho Tổng
thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và xin lệnh.
Đại tướng Cao Văn
Viên cho biết: trong cuộc nói chuyện này, Tổng
thống không có lệnh nào dứt khoát. Tổng
thống không cho Trung tướng Trưởng biết nên rút hay
nên cố thủ. Tổng thống chỉ hỏi nếu di tản ngay thì
có bao nhiêu người có thể đi an toàn. Đại
tướng Viên nhận định rằng “rõ ràng Tổng thống
không hài lòng với những diễn biến đang xảy ra.
Cuộc di tản lần này không biết chừng lại trở thành
một thảm kịch như đã xảy ra cho Quân đoàn 2 từ Cao
nguyên xuống Nha Trang. Tổng thống không muốn ra lệnh
thêm nưã để phải chịu thêm một nỗi đau thứ hai.”
Vừa khi cuộc nói
chuyện chấm dứt, tất cả mọi liên lạc từ Quân khu 1 với
Sài Gòn bị gián đoạn, vì đạn pháo
kích của Cộng quân. Tình hình lúc bấy
giờ trở nên tuyệt vọng, Trung tướng Trưởng cho lệnh rút
quân khỏi Đà Nẵng. Vị Tư lệnh Quân đoàn
1/Quân khu 1 bàn với Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư
lệnh Vùng 1 duyên hải, và các vị Tư lệnh
các đại đơn vị về kế hoạch di tản bằng cách cho
quân nhân các đơn vị tập trung tại ba địa điểm: một
tại cuối đèo Hải Vân, một tại chân núi Non
Nước, và một tại cửa biển Hội An.
Vào rạng
sáng ngày 29 /3/1975, sương mù trải dài
suốt bờ biển. Tất cả tàu của Hải quân đã tập trung
tại điểm hẹn nhưng thủy triều còn quá thấp nên
tàu không thể cập sát được. Các quân
nhân phải lội nước một khoảng xa mới lên tàu được.
Việc việc đang diễn tiến thuận lợi đến nửa buổi thì Cộng
quân bắt đầu pháo kích ra bãi biển, cuộc di
tản trở nên mất trật tự khiến nhiều quân nhân chết
đuối. Đại tướng Cao Văn Viên cho biết khi tàu rời điểm
đón quân thì chỉ có 6,000 quân
nhân Thủy quân Lục chiến và 4,000 quân
nhân của Sư đoàn 3 và một vài đơn vị
khác được lên tàu.
*Đêm cuối
cùng của Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1
Ngô Quang Trưởng tại Đà Nẵng.
Theo nhật ký hành quân của Thiếu tướng Nguyễn Duy
Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh kiêm Tư lệnh chiến trường
Quảng Nam- Đà Nẵng, và lời kể của một sĩ quan Trưởng
phòng Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh (không muốn
nêu tên) vào 7 giờ 30 tối ngày 28/3/1998,
Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng
và vài sĩ quan tham mưu Quân đoàn 1 đến Bộ
Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh tại căn cứ Hòa Khánh.
Ông bắt tay thật chặt từng sĩ quan tham mưu Sư đoàn 3BB
dàn chào ông ở sân chờ bộ Tư lệnh. Một vị
trưởng phòng kể lại là Trung tướng Trưởng đã
nhìn thẳng vào mặt từng người như muốn nói với họ
một điều gì đó. Không ai nghĩ rằng đó
là cái bắt tay vĩnh biệt của vị Tư lệnh Quân
đoàn.
Cũng theo nhật ký
hành quân của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, thì
trong nửa giờ họp riêng tại văn phòng tư lệnh Sư
đoàn,Trung tướng Trưởng đã bàn với Tướng Hinh kế
hoạch rút lui nếu áp lực Cộng quân quá mạnh.
8 giờ tối cùng ngày, Trung tướng Trưởng rời căn cứ
Hòa Khánh và bay một vòng quan sát
thành phố Đà Nẵng trong khi Cộng quân tiếp tục
pháo kích vào thành phố.
9 giờ 30 tối, Trung tướng
Tư lệnh Quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng bay đến Bộ Tư
lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải và triệu tập
một cuộc họp với các vị tư lệnh các đại đơn vị ngay tại
văn phòng của Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (phó
đề đốc: tương đương cấp chuẩn tướng). Tham dự cuộc họp có
Trung tướng Lâm Quang Thi, Tư lệnh Tiền phương Quân
đoàn 1; Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ
binh; Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy
quân Lục chiến, và Phó đề đốc Hồ Văn KỳThoại. Trước
khi bắt đầu cuộc họp, Tướng Trưởng gọi điện thoại xin quyết định của
Đại tướng Viên và Tổng thống Thiệu. Các vị tướng
ngồi chờ kết quả.
Theo lời kể của Thiếu
tướng Bùi Thế Lân thì chỉ sau vài
phút nói chuyện với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu,
đôi mắt Trung tướng Trưởng đỏ ngầu, khuôn mặt buồn
bã. Rời điện thoại, Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn
1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng tiến về các vi tướng
đang chờ lệnh của ông và giọng nghẹn ngào: “Lệnh bỏ
Đà Nẵng”.
* Tình
hình phòng tuyến Quảng Nam-Đà Nẵng trước
ngày 29-3-1975
Trong 2 ngày 26/3 và 27/3, Cộng quân mở các
đợt pháo kích vào các vị trí của một
số đơn vị thuộc Sư đoàn 3 Bộ binh. Sáng ngày 28
tháng 3/1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh
Quân đoàn 1 và Quân khu 1, mở cuộc họp khẩn
với các đơn vị trưởng tại bộ Tư lệnh Quân đoàn.
Nhiều biện pháp được đưa ra để vãn hồi trật tự và
gấp rút tái tổ chức các đơn vị các tỉnh
Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Tín rút về. Tất cả
các quân nhân từ những nơi khác về Đà
Nẵng trong những ngày trước cũng được tập trung để bổ sung cho
các đơn vị trú phòng.
Tại khu vực trách nhiệm của Sư đoàn 3 Bộ Binh, Trung
đoàn 56BB được lệnh rút về tuyến vàng (Câu
Lâu-Thu Bồn). Cộng quân tung chiến xa đuổi theo, 1 chiếc M
113 của Thiết đoàn 11 bị bắn cháy. Tại phòng tuyến
Đại Lộc, Cộng quân đã chiếm bộ chỉ huy Chi khu quận
và lập hệ thống công sự phòng thủ ở đây.
Trung đoàn 57BB được lệnh phải triệt phá các chốt
chận của Cộng quân quanh quận lỵ. 1 giờ trưa, Bộ Chỉ huy Tiểu khu
Quảng Nam mất liên lạc với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3. Theo lời
Đại tá Phạm Văn Chung, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Quảng Nam, thì trưa ngày 28/3/1975, ông đã
đến Duyên đoàn 15 Hải quân dùng tàu
nhỏ đi quan sát việc bố phòng quanh thị xã Hội An.
Sau đó ông liên lạc về Bộ chỉ huy Tiểu khu
thì không có ai trả lời.
Cũng vào trưa
ngày 28-3-1975, Cộng quân tung một tiểu đoàn thuộc
B44 lập các chốt chận tại Thanh Quít, ngay sau đó,
Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 BB điều động 1 tiểu đoàn của Trung
đoàn 2 BB giải tỏa khu vực này, 2 tiểu đoàn
còn lại và Bộ chỉ huy Trung đoàn 2BB phụ
trách phòng ngự phòng tuyến Điện Bàn-Hội
An. Đến chiều ngày 28/3/1975: ba tiểu đoàn của Liên
đoàn 915 Địa phương quân do Trung tá Võ
Vàng chỉ huy được điều động phòng thủ thị xã Hội
An. Sau lưng của 3 trung đoàn thuộc Sư đoàn 3 BB,
là các đồn Địa phương quân và Nghĩa
quân thì đã bỏ ngỏ. Khoảng 2 giờ chiều, Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 1 nhận được mật điện của Phòng 2 bộ Tổng
Tham Mưu báo tin là Cộng quân sẽ tấn công
vào Đà Nẵng vào khuya ngày 28 rạng
ngày 29/3/1975.
Cùng với
thông tin tình báo của Phòng 2, Bộ Tổng Tham
Mưu cũng đưa ra thêm một lệnh nữa là Sư đoàn 1
Không quân phải đưa hết số trực thăng và phản lực
của Sư đoàn vào căn cứ Không quân tại
Phú Cát hoặc Phan Rang. Trung tướng Tư lệnh Quân
đoàn 1/Quân khu 1 Ngô Quang Trưởng cho lệnh
báo động đỏ, tất cả các đơn vị đều được đưa ngay đến vị
trí phòng thủ. Để ổn định tình hình trật tự
trong thành phố, Trung tướng Ngô Quang Trưởng cử Chuẩn
tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, làm
quân trấn trưởng quân trấn Đà Nẵng. Các đại
đội Quân Cảnh được điều động tuần tra quanh thị xã
và kiểm soát quân nhân đi lẻ tẻ trên
đường phố.
Đến tối 28/3/1975, theo
nhật ký của Thiếu tướng Hinh, từ 7 giờ tối trở đi, Cộng
quân đã kéo pháo 130 ly từ đèo Mũi
Trâu để bắn vào phi trường, giờ G của trận chiến tại
Đà Nẵng bắt đầu.
30
NĂM
NHÌN
LẠI,
NGÀY
1/4/1975: Kịch Chiến Tại Phú
Yên
Vương Hồng Anh
* Phòng
tuyến của Quân đoàn 2 tại tỉnh Phú Yên trước
ngày 1/4/1975
Sau khi VNCH triệt thoái khỏi Cao Nguyên từ giữa
tháng 3/1975, Cộng quân gia tăng áp lực trên
các cụm tuyến phòng ngự của Sư đoàn 22 Bộ Binh tại
tỉnh Bình Định. Để bảo toàn lực lượng, Sư đoàn 22
Bộ Binh và các đơn vị đồn trú tại tỉnh Bình
Định rút khỏi Qui Nhơn cuối tháng tháng 3/1975.
Bấy giờ vùng trách nhiệm Quân khu 2 chỉ còn
4 tỉnh duyên hải: Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Bình Thuận và một số khu vực thuộc hai tỉnh
Lâm Đồng và Tuyên Đức đang bị áp lực nặng của
Cộng quân.
Để chỉ huy lực lượng
Quân đoàn 2 tại mặt trận Phú Yên, Thiếu tướng
Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2,
đã cho lập bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 2 tại
Tuy Hòa và cử Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá
Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2, trực tiếp chỉ
huy. Bộ chỉ huy này hình thành từ giữa
tháng 3/1975 ngay sau khi bộ Tư lệnh Quân đoàn 2
rút khỏi Pleiku. Trước khi làm phụ tá cho Thiếu
tướng Phú, Chuẩn tướng Cẩm là Tham mưu trưởng Quân
đoàn 2 thời kỳ Tướng Nguyễn Văn Toàn (thăng cấp Trung
tướng 1/4/1974) làm Tư lệnh.
Tướng Trần Văn Cẩm
nguyên là sĩ quan Pháo binh, từ năm 1966 đến 1969,
là Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh. Ông được
thăng cấp chuẩn tướng vào đầu tháng 11/1972 khi đang giữ
chức Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Trong năm 1973, Chuẩn tướng Cẩm
được điều động về bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 để đảm
trách chức vụ Tham mưu trưởng mà vị Tư lệnh Quân
đoàn là Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn (thăng trung
tướng tháng 4/1974). Tháng 11/1974, khi Thiếu tướng Phạm
Văn Phú thay Trung tướng Nguyễn Văn Toàn thì Chuẩn
tướng Trần Văn Cẩm được bổ nhiệm chức Phụ tá Tư lệnh Quân
đoàn.
* Phú
Yên thất thủ, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm bị địch quân bắt
Cùng lúc Sư đoàn 3 CSBV tấn công Qui Nhơn
và vùng phụ cận thì tại tỉnh Phú Yên,
từ ngày 1/4/1975, Sư đoàn 320 CSBV tấn công
vào các quận của tỉnh Phú Yên và một
số vị trí gần thị xã Tuy Hòa. Gần 7 giờ
sáng, Cộng quân pháo kích vào thị
xã, một số doanh trại trong đó bộ chỉ huy Tiểu khu
Phú Yên là mục tiêu chính của
pháo Cộng quân.
7 giờ sáng
cùng ngày, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Chỉ huy Bộ tư lệnh
Tiền phương của Quân đoàn 2 tại Tuy Hòa, đã
gọi máy báo cáo tình hình cho Thiếu
tướng Phạm Văn Phú ở Nha Trang. Theo tường trình của
Tướng Cẩm, Cộng quân pháo kích rất dữ dội,
và bắt đầu tấn công cả 2 mặt vào thị xã.
Doanh trại của bộ chỉ huy Tiểu khu Phú Yên, cũng là
nơi trú đóng của bộ Tư lệnh Tiền phương Quân
đoàn 2, đã bị pháo kích nặng. Sau lần gọi
này, Tướng Trần Văn Cẩm không còn liên lạc
với Thiếu tướng Phú. Theo lời một số sĩ quan của Quân
đoàn 2 có mặt tại Tuy Hòa lúc Cộng
quân tấn công, sau khi báo cáo tình
hình cho Tướng Phú, Tướng Cẩm cho lệnh rút ban
tham mưu của ông ra khỏi doanh trại Tiểu khu, và ông
đã sử dụng tần số không lục liên lạc với Không
quân để yêu cầu cho trực thăng đến bốc ban tham mưu của
ông, nhưng mọi sự liên lạc không có kết quả,
sau đó ông đã bị Cộng quân bắt cùng
với một số sĩ quan tham mưu. ( Sáng ngày 2/4/1975, Bộ
Tổng Tham Mưu QL.VNCH nhận được báo cáo của Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 2/Quân khu 2 tại Nha Trang về sự việc
Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm được ghi nhận là mất tích)
Về tình
hình bộ chỉ huy Tiểu khu Phú Yên và lực
lượng Địa phương quân của tỉnh này, theo ghi nhận của Đại
tướng Cao Văn Viên, một số tiểu đoàn Địa phương quân
của tỉnh này đã phải bỏ phòng tuyến tìm
cách vào Nha Trang, vị tân tiểu khu trưởng
kiêm tỉnh trưởng Phú Yên (một trung tá Biệt
động quân nhận chức ngày 29/3/1975) được báo
cáo là bị thương và mất tích. Chỉ có
một số đại đội do các sĩ quan trẻ chỉ huy đã tiếp tục
chiến đấu với Cộng quân suốt cả ngày 1/4/1975 và
sau đó gần hết đạn đã phải rút khỏi vị trí
phòng ngự để bảo toàn lực lượng. Họ đã bị Cộng
quân bắt sau khi phân tán mỏng để tìm đường
vào địa phận tỉnh Khánh Hòa. Về phía Cộng
quân, ngay trong ngày 1/4/1975 đã có một số
bộ phận lọt vào Tuy Hòa và rạng sáng
ngày 2/4/1975, toàn thị xã này đã
lọt vào tay Cộng quân.
*Trận chiến tại
phòng tuyến Đèo Cả
Tại phòng tuyến Đèo Cả, cách Tuy Hòa khoảng
40 km về phía Nam, Một tiểu đoàn Biệt động quân bị
một trung đoàn Cộng quân tấn công. Tiểu đoàn
đã chống trả quyết liệt và đẩy lùi được nhiều đợt
xung phong của Cộng quân. Đến nửa đêm ngày 1 rạng
ngày 2 tháng 4/1975, Tiểu đoàn Biệt động
quân đã phải rút khỏi phòng tuyến tiến về
hướng Nha Trang. 7 giờ sáng ngày 2/4/1975, Bộ Tổng Tham
Mưu QL.VNCH được báo cáo là Cộng quân
đã chiếm tỉnh Phú Yên. Cùng với thời gian
Cộng quân tấn công vào Bình Định và
Phú Yên, Cộng quân tung Sư đoàn 7 CSBV tạo
áp lực tại Tuyên Đức. Tỉnh trưởng kiêm tiểu khu
trưởng tỉnh này được lệnh rút quân về hết Nha
Trang. Các trường quân sự tại Đà Lạt cũng được lệnh
rút khỏi Đà Lạt vào những ngày cuối
tháng 3/1975.
* Phối trí
lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 vào đầu
tháng 4/1975
Theo tài liệu của Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu được Đại tướng
Cao Văn Viên ghi lại trong hồi ký, lực lượng phòng
ngự thị xã Tuy Hòa vào cuối tháng 3/1975
chỉ có các tiểu đoàn Địa phương quân của
Tiểu khu Phú Yên, và vùng phụ cận chỉ
còn một tiểu đoàn Biệt động quân, một trong những
đơn vị đã có công lớn trong việc khai thông
lộ trình cuộc rút quân của Quân đoàn 2
trên Liên tỉnh lộ 7 B và hương lộ 436. Các
đơn vị còn lại của Quân đoàn 2 từ Kontum và
Pleiku rút về được đưa vào Nha Trang theo kế hoạch
tái phối trí của Bộ Tổng Tham Mưu như sau:
-Binh sĩ thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh được tái tập trung tại
Động Ba Thìn cách Cam Ranh 10 km về hướng Bắc. Bộ Tư lệnh
Sư đoàn 23 BB (do Đại tá Lê Hữu Đức giữ chức quyền
Tư lệnh thay thế Chuẩn tướng Lê Trung Tường bị thương ngày
16/3/1975), có nhiệm vụ tổ chức lại đội ngũ các đơn vị
trực thuộc. Lực lượng Địa phương quân và Nghĩa quân
cơ hữu của các Tiểu khu Pleiku, Kontum, Darlac đều tập trung về
hết Trung tâm huấn luyện Lam Sơn để tái huấn luyện
và làm lực lượng bổ sung và cung cấp nhân
lực.
-Các liên đoàn Biệt Động Quân và
các tiểu đoàn Pháo binh được tập trung về trung
tâm huấn luyện của mỗi binh chủng tại Dục Mỹ, cách Nha
Trang khoảng 35 km. Các đơn vị Thiết giáp được chuyển về
tập trung tại trường Thiết giáp ở Long Thành, Biên
Hòa. Tính đến cuối tháng 3/1975, cuộc tái
phối trí đã tiến hành nhanh chóng, Sư
đoàn 23 BB hoàn tất được một trung đoàn đầy đủ,
Biệt Động Quân tái tổ chức được 2 tiểu đoàn;
Pháo binh có 2 pháo đội 105 ly được huấn luyện
và nhận súng mới.
Tính đến cuối
ngày 1/4/1975, khu vực trách nhiệm của Quân khu 2
(trước ngày Cộng quân tấn công vào Ban
Mê Thuột 10/3/1975, quân khu này có 12 tỉnh)
chỉ còn lại một phần tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Ninh
Thuận và Bình Thuận. Về quân số, ngoài Lữ
đoàn 3 Nhảy Dù đang bảo vệ phòng tuyến
Khánh Dương, chỉ còn 1 trung đoàn Bộ binh
và 2 tiểu đoàn Biệt động quân, 2 liên
đoàn Địa phương quân của hai tiểu khu Ninh Thuận và
Bình Thuận cùng một số đại đội biệt lập còn khả
năng tham chiến.
30
Năm
Nhìn
Lại,
2/4/1975:
Ngày Cuối Cùng Của Tư Lệnh
Quân Đoàn 2
Vương Hồng Anh
* Ngày
cuối cùng trên chiến trường của Tư lệnh Quân
đoàn 2/Quân khu 2 Phạm Văn Phú
Ngày 2 tháng
4/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn
2/Quân khu nhận được lệnh bàn giao phần lãnh thổ
cuối cùng của Quân khu 2 cho Quân đoàn
3/Quân khu 3. Đó cũng là ngày cuối
cùng của Thiếu tướng Phạm Văn Phú trên chiến trường
trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2. Những
giờ cuối cùng của vị tướng này tại Nha Trang và
tại Phan Thiết đầy bi tráng. Trong nhật ký hành
quân mang sang Mỹ được và được phổ biến trong cuốn Cuộc
Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Thiếu tá Phạm Huấn-sĩ
quan Báo chí-đã ghi lại một số sự kiện xảy ra cho
vị tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 trong hai
ngày 1 và 2/4/1975 với nội dung được tóm lược như
sau:
5 giờ 50 chiều
ngày 1/4/1975, Thiếu tướng Phú vào bộ Tư lệnh Sư
đoàn 2 Không quân ở Nha Trang, nhưng vị Tư lệnh Sư
đoàn này đi vắng. Ông phải ngồi ngồi đợi, 20
phút sau thì Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Oánh-chỉ huy
trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân và
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Lượng, Tư lệnh Sư đoàn 2 Không
quân, bước vào. Lúc bấy giờ Tướng Phú ngồi ở
chiếc ghế sát bàn của Tư lệnh của Sư đoàn 2
Không quân. Tướng Lượng và Tướng Oánh thấy
Tướng Phú không chào hỏi và tới ngồi ở
bàn khác đối diện. Thấy thái độ và
cách xử sự khác thường của vị Tư lệnh Sư đoàn 2
Không quân, một trong 2 sư đoàn Không
quân thống thuộc quyền điều động của bộ tư lệnh Quân
đoàn 2, Tướng Phú hơi ngạc nhiên nhưng rồi
ông chợt hiểu. Ông hỏi Chuẩn tướng Lượng:
-Có chuyện gì xảy ra?
Chuẩn tướng Lượng không trả lời, mặt lầm lì. Còn
Chuẩn Tướng Oánh, với giọng từ tốn, lễ độ nói với Thiếu
tướng Phú:
-Tôi muốn thưa với Thiếu Tướng tôi được chỉ định làm
Tư lệnh Mặt trận Nha Trang, vì Quân đoàn 2
không còn nữa. Tướng Phú mặt biến sắc, hỏi dồn:
-Lệnh ai? Anh nhận lệnh ai?
Tướng Oánh vẫn điềm đạm, chậm rãi nói: Thưa Thiếu
Tướng, lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, của Trung tướng Đồng Văn Khuyên
(Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu) từ Sài Gòn.
Nghe Chuẩn tướng Oánh trình bày, Thiếu tướng
Phú cảm thấy danh dự bị tổn thương, vì theo tổ chức
quân đội, người có quyền ra lệnh cho ông là
Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, còn Trung
tướng Khuyên là tham mưu trưởng, không có
quyền ra lệnh cho các tư lệnh Quân đoàn, về vai vế
và quyền hạn thì Tư lệnh quân đoàn và
Tư lệnh quân chủng chỉ xếp sau Tổng tham mưu trưởng.
18 giờ 40 TướngPhú
dùng điện thoại tại văn phòng Tướng Lượng để gọi về
Sài Gòn gặp Trung tướng Khuyên. Ngay từ câu
đầu tiên, Thiếu tướng Phú đã hét lên
trong ống liên hợp:
-Trung tướng hỏi tôi đi đâu à? Tôi bay chỉ huy.
Sau một hồi tranh cải, Thiếu tướng Phú nói lớn:
-Tôi là Tư lệnh Quân đoàn. Đi đâu,
đó là quyền của tôi. Trung tướng Thuần (Chỉ huy
trưởng trường Hạ sĩ quan) cùng đi trên máy bay chỉ
huy của tôi mấy tiếng đồng hồ, nhưng tôi không cần
Trung tướng phải tin. Và tôi cũng không phải
trình Trung tướng.
19 giờ 45 phút cùng ngày, Thiếu tướng Phú
ra trực thăng bay về PhanRang. Khi ông vừa ngồi lên xe Jeep
để ra bãi đậu trực thăng, thì một sự việc bất ngờ xảy ra.
Một xe chở đầy lính và vũ khí phóng tới,
một Thiếu tá Không quân nhẩy xuống nói lớn:
-Tại sao, tại sao, các ông là Tướng lại bỏ
lính chạy. Ai phòng thủ căn cứ này.
Khi đó, Thiếu tá Phạm Huấn cùng đi với Thiếu tướng
Phú, đã ngồi đè lên người Thiếu tướng
Phú, và chĩa khẩu AR 18 về phía người sĩ quan
này và nói:”Anh không được vô lễ,
ông Tướng Tư lệnh Quân đoàn không có
nhiệm vụ phải phòng thủ căn cứ Không quân”. Cuối
cùng thì mọi việc êm xuôi, Thiếu tướng
Phú hiểu được sự phẫn nộ của vị sĩ quan Không quân
và những người lính đi cùng.
* Quân đoàn
2 bàn giao phần lãnh thổ còn lại cho Quân
đoàn 3.
Đêm 1 tháng 4/1975, Thiếu tướng Phú nằm dưới
chân núi, trên một cái giường bố, tại ban chỉ
huy của một tiểu đoàn Địa phương quân Ninh Thuận,
phòng thủ căn cứ Phan Rang. 1 giờ 45 trưa ngày 2
tháng1/1975, Tướng Phú bay đến ngọn đồi “Lầu Ông
Hoàng” ở Phan Thiết chờ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh
phó Quân đoàn 3, để thảo luận về việc bàn
giao phần lãnh thổ còn lại của Quân đoàn 2
&Quân khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân
đoàn 3. Theo kế hoạch, Quân đoàn 3 chính
thức phụ trách tuyến Ninh Thuận-Bình Thuận từngày
3/4/1975. Vào giờ này, Bộ Tham mưu của Tướng Phú
chỉ còn lại Thiếu tá Vinh, chánh văn phòng;
Thiếu tá Hóa tùy viên, Thiếu tá Huấn,
sĩ quan báo chí và Đại tá Lê Hữu Đức,
Quyền Tư lệnh Sư đoàn 23BB.
Đúng 2 giờ 12 phút chiều cùng ngày, Thiếu
tá Hóa trình với Thiếu tướng Phú là
trực thăng của Thiếu tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi Thiếu
tá Hóa vừa quay gót, Thiếu tướng Phú
rút khẩu súng ngắn ra khỏi vỏ, nhưng tiếng hét
thất thanh của Đại tá Đức vang lên: “ThiếuTướng!”, ngay
sau đó, khẩu súng trên tay Tướng Phú bị đại
tá Đức gạt bắn xuống đất. Tướng Phú không chết
trong ngày 2 tháng4/1975, nhưng 28 ngày sau
ông đã tự sát tại Sài Gòn.
* Cuộc hội ngộ
cuối cùng của hai vị Tư lệnh Quân đoàn
Cũng theo nhật ký của Thiếu tá Huấn, trước đó
vào 5 giờ chiều ngày 30 tháng 3/1975, Tướng
Phú đã bay ra Cam Ranh, để cùng với Phó Đề
đốc Hoàng Cơ Minh, Tư lệnh Hải quân Vùng hai
duyên hải, đi trên một soái hạm chỉ huy ra
vùng biển ngoài Cam Ranh để đónTrung tướng Trưởng
đang bị bệnh nằm trên tàu HQ 404 từ Cam Ranh vào
(Tướng Trưởng đã phải bơi từ bờ để ra tàu hải quân
đậu ngoài biển). Trên tàu lúc này
có rất đông chiến binh Thủy quân Lục chiến từ
Quân khu 1 vào. Tướng Phú và Phó Đề
đốc Minh phải khó lắm mới lách xuống được chỗ Trung tướng
Trưởng nằm dưỡng bệnh. Theo ghi nhận của Thiếu tá Phạm Huấn,
có mặt vào giờ phút đó, thì
lúc này Trung tướng Trưởng thở thoi thóp nhờ
bình nước biển. Quanh Trung tướng Trưởng co Chuẩn Tướng Nguyễn
Đức Khánh, Tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân
(ĐàNẵng), Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh trưởng Thừa
Thiên. Thiếu tướng Phú ghé sát tai Trung
tướng Trưởng hỏi hai lần, nhưng sắc diện Trung tướng Trưởng không
thay đổi. Nhưng rồi có một giây Tướng Trưởng ngước
nhìn lên. Đôi mắt như muốn bật máu vì
uất ức. Chi tiết về cuộc gặp gở này cũng đã được Hải
quân Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, hạm trưởng HQ404 kể lại
trong một bài viết phổ biến vào năm 1995. Có một
điểm khác biệt về mốc thời gian là tài liệu của
Trung tá Nhơn thì lại ghi là cuộc gặp gở giữa
Tướng Phú và Tướng Trưởng diễn ra vào
tốingày 1/4/1975, (nhật ký của Thiếu tá Huấn ghi
là 5 giờ chiều30/3/1975, như đã trình bày ở
trên). Trong khi đó theo lời kể của một số sĩ quan đi theo
Tướng Trưởng, HQ 404 rời Đà Nẵng ngày29/3/1975 và
đến chiều ngày 30/3/1975 thì đã vào
vùng biển ở ngoài Cam Ranh.
Theo lời của Trung
tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404, tốingày 1/4/1975,
Tướng Phú đã đi tàu nhỏ cập vào chiến hạm
để lên tàu thăm và nói chuyện với Tướng
Trưởng. Tình cờ khi vào phòng lấy hồ sơ, Trung
tá Nhơn đã nghe câu nói của Thiếu tướng
Phú: “Dù sao đi nữa tôi cũng còn vài
tiểu khu ở đây với tôi chiến đấu”. Cũng cần ghi nhận rằng
Tướng Phú đã có một thời gian làm việc
chung với Tướng Trưởng: năm 1967, khi còn là đại
tá, ông là Tư lệnh phó Sư đoàn 1 Bộ
binh do Tướng Trưởng làm tư lệnh; năm 1972, khi Tướng Trưởng
là Tư lệnh Quân đoàn 1 thì Tướng Phú
là Tư lệnh Sư đoàn 1 thuộc Quân đoàn
này). Cuộc gặp gỡ của hai vị tư lệnh Quân đoàn diễn
ra đúng10 phút. Sau đó, Thiếu tướng Phú
đứng nghiêm chào từ biệt Trung tướng Trưởng. Rồi ông
bước nhanh ra khỏi căn phòng nhỏ của chiến hạm, những sự kiện bi
tráng chờ đợi ông, người hùng Điện Biên Phủ
năm nào.
30
NĂM
NHÌN
LẠI:
Quân
Đoàn 3 Giữ Phòng Tuyến
Phan Rang
Vương Hồng Anh
* Tổng lược tình hình 7
tỉnh Cao nguyên của Quân khu 2
trước khi Quân đoàn 3
thành lập phòng tuyến Phan Rang
Như đã trình bày, kể từ ngày 10/3/1975,
ngày Cộng quân (CQ) mở trận tấn công cường tập
vào thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Đắc Lắc, cho
đến ngày 3 tháng 4/1975, trong vòng 23
ngày, CQ đã chiếm vùng Cao nguyên sau khi
lực lượng VNCH triệt thoái, theo trình tự sau đây.
-Ban Mê Thuột (tỉnh lỵ tỉnh
Darlac) thất thủ ngày 11/3/1975; ngày 16-18/4/1975, lực
lượng Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi hai tỉnh Pleiku
và Kontum, và CQ đã chiếm 2 tỉnh này
mà không qua các cuộc giao chiến. Ngày
19/3/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 nhận được báo
cáo Phú Bổn thất thủ. Ngày 22/3/1975, trên
địa bàn tỉnh Quảng Đức, Cộng quân đã mở nhiều cuộc
tấn công và pháo kích. Tỉnh Quảng Đức được
ghi nhận là thất thủ vào ngày này.
-Ngày 29/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1
đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ
huy đã triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối
ngày 29/3/1975.(Theo nhật ký hành quân của
Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh
Quân đoàn 2 ghi theo báo cáo của Trung
tâm Hành quân Quân đoàn 2 đặt tại Nha
Trang thì diễn tiến tình hình chiến sự tại
Lâm Đồng như sau:
“Vào 3 giờ sáng
ngày 28-3-1975, Cộng quân đã tấn công quận Bờ
Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng
ngày, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào
thị xã tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, tỉnh lỵ bị
tràn ngập.” Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế
Viên, nguyên trưởng ty Thông tin-Chiêu Hồi tỉnh
Lâm Đồng, người đã rời Bảo Lộc vào 12 giờ trưa
ngày 29/3/1975, thì ” không hề có vấn đề thị
xã Bảo Lộc (tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng) bị tràn ngập,
ít ra là tính tới 12 giờ trưa ngày
này, mà chỉ có việc quân ta tự ý
rút lui và đồng bào di tản theo mà
thôi.)
- Ngày 3/4/1975, tỉnh và thành phố cuối
cùng của Cao nguyên bị CQ chiếm là tỉnh Tuyên
Đức và thành phố Đà Lạt (Sau 1975, CS sát
nhập 2 tỉnh Tuyên Đức, Lâm Đồng, thành phố Đà
Lạt thành tỉnh Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt
là tỉnh lỵ của tỉnh này).
*Quân đoàn 3 phối trí lực lượng giữ phòng
tuyến Phan Rang
Nhằm ngăn chận địch quân tràn chiếm hai tỉn
NinhThuận,Bình Thuận, thành lủy cuối cùng của
Quân khu 2, Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực VNCH đã quyết
định giao cho Quân đoàn 3 lập tuyến phòng thủ bảo
vệ hai tỉnh này. Để có sự chỉ huy thống nhất, Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đã chỉ thị cho Trung tướng Nguyễn Văn
Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 & Quân Khu 3,
thành lập Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 tại
Phan Rang. Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được Tổng thống Thiệu cử
làm Tư lệnh phó Quân đoàn 3, trực tiếp chỉ
huy Bộ Tư lệnh Tiền phương của Quân đoàn này.
Vào thời gian đó, Trung tướng Nghi là Chỉ huy
trưởng Trường Bộ Binh, ông cũng đã từng giữ chức Tư lệnh
Quân đoàn 4 & Quân khu 4 từ tháng 5/1972
đến 11/1974 sau khi đã giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ
binh gần 4 năm (từ tháng 6/1968 đến tháng 5/1972).
Trở lại với việc phối trí hoạt động tại Ninh Thuận và
Bình Thuận,theo kế hoạch của bộ Tổng Tham Mưu và sự
phân nhiệm của bộ Tư lênh Quân đoàn 3 &
Quân khu 3, thì Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân
đoàn 3 đặt tại căn cứ Không quân Phan Rang
cùng với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân
mà Tư lệnh là Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang.
Trách nhiệm của Bộ Tư lệnh Tiền
phương Quân đoàn 3 là chỉ huy cáclực lượng
phòng thủ và bảo vệ hai tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận.Trong những ngày đầu của tháng 4/1975,
lực lượng chính để bảo vệphòng tuyến Phan Rang là
Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tham chiến mặt trận Khánh Dương
và tiểu đoàn 3 Nhảy Dù được không vận từ
Sài Gòn ra ngày 2/4/1975. Về hỏa lực không
pháo là các phi đoàn thuộc Sư đoàn 6
Không quân.Yểm trợ hỏa lực pháo binh có 1
tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn Dù
và một số pháo đội do Quân đoàn 3 điều động
đến.
Ngày 8 tháng 3/1975, sau khi Lữ đoàn 2 Nhảy
Dù đến Phan Rang để thay thế Lữ đoàn 3, Bộ Tư lệnh Tiền
phương Quân đoàn 3 đã khởi sự phối trí lực
lượng để bảo vệ phòng tuyến Phan Rang như sau.
Nỗ lực chính là Lữ đoàn 2 Nhảy Dù với
các Tiểu đoàn 3, 7 ,11 Nhảy Dù, Đại đội Trinh
sát 2 và các toán thám sát
của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này hoạt động tại hai khu
vực Đông Bắc và Tây Bắc thị xã Phan Rang. Lữ
đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy Dù là Đại
tá Nguyễn Thu Lương. Ngoài 3 tiểu đoàn Nhảy
Dù nói trên, Lữ đoàn 2 Nhảy Dù
còn được tăng cường Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù (đã
tham chiến tại mặt trận Khánh Dương trong đội hình của Lữ
đoàn 2 Nhảy Dù), và Tiểu đoàn 1 Pháo
binh Nhảy Dù.
* Tình
hình Phan Rang trong thượng tuần tháng 4/1975:
Ngay sau khi Bộ tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được
thành lập tại Phan Rang (tỉnh lỵ Ninh Thuận), trật tự an ninh
tại tỉnh này đã được vãn hồi ngay. Vị Đại
tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởngNinh Thuận bỏ đi trong
ngày 2/4/1975 được lệnh trở về tái lập việc phòng
thủ quanh thị xã và điều hành công việc
hành chínhtrong tỉnh. Tuy nhiên lực lượng Địa
phương quân và Nghĩa quân tại Ninh Thuận chỉ
còn một phần ba quân số tại hàng. Một số lớn binh
sĩ và hạ sĩ quan đã bỏ đơn vị vào Nam tìm
gia đình.
Theo kế hoạch, lực lượng
Địa phương quân được phối trí phòng thủ gần thị
xã, bảo vệ cầu, các cơ sở và tham gia lực lượng
giữ gìnan ninh tại thị xã và các
vùng phụ cận. Lực lượng nòng cốt để bảovệ Phan Rang vẫn
trông cậy vào các tiểu đoàn Nhảy Dù.
Với lực lượng mới được tăng cường, với sự yểm trợ không
quân hữuhiệu, với sự chỉ huy thống nhất, an ninh được tái
lập và tìnhhình tại Phan Rang lắng dịu lại sau
những ngày hỗn loạn.
* Phần bổ sung về
cuộc hành trình của Trung tướng Ngô Quang Trưởng
trên đường vào Nam
Trong khi Cộng quân tiến chiếm các tỉnh Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hòa thì một số
tàu Hải quân đang chở hàng ngàn quân
sĩ của các đơn vị Quân khu 1 và một số tiểu
đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lụcchiến từ Đà
Nẵng vào Nam. Như đã trình bày, chỉ
có một ít đơn vịcủa Sư đoàn 1 và Sư
đoàn 3 Bộ binh lên được tàu cùng với một
sốsĩ quan. Riêng Trung tướng Trưởng được tàu Hải
quân HQ 404 vớt sau khi ông phải bơi từ bờ.
Trong cuộc hải
trình vào Nam trên tàu HQ 404, Tướng Trưởng
đã nhận được mật điện của Tổng thống Thiệu yêu cầu
ông chuyển qua HQ5 hay các chiến hạm lớn có đầy đủ
tiện nghi và sạch sẽ hơn vì HQ 404 quá chật chội,
không có máy lạnh và chở toàn binh
sĩ. Theo lời kể của Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404,
thì lúc đó tàu này dơ bẩn và
hôi hám vì có nhiều người chết. Dù
được yêu cầu chuyển qua một tàu lớn hơn nhưng Trung tướng
Trưởng không đồng ý, Ông yêu cầu Trung
tá Nhơn báo về Sài Gòn là ông
xin ở lại trên tàu với anh em Thủy quân Lục chiến
chứ không đi đâu cả. Yêu cầu của Trung tướng Trưởng
được chấp thuận.
Khi HQ 404 đến Cam Ranh,
Hạm trưởng của tàu này nhận được lệnh bỏ hết anh em Thủy
quân lục chiến xuống Cam Ranh và chỉ chở một mình
Trung tướng Trưởng vào Sài Gòn. Để thực hiện lệnh
này, HQ 404 được phép ủi bãi Tân Cảng để đổ
Thủy quân lục chiến xuống. Ngay khi cuộc đổ quân bắt đầu,
Trung tướng Trưởng lặng lẽ đứng dậy đi xuống tàu. Trung
tá Nhơn thấy vậy tiến đến trình bày: “Lệnh
Sài Gòn yêu cầu tôi chở Trung tướng về
Sài Gòn. Xin Trung tướng ở lại tàu cho”. Với
nét mặt cương quyết, Trung tướng Trưởng nói rõ
từng tiếng yêu cầu Hạm trưởng HQ 404 xin phép Sài
Gòn cho Thủy quân Lục chiến về Sài Gòn để
dưỡng quân và chỉnh đốn đội ngũ. Tướng Trưởng nói
tiếp: Nếu anh em Thủy quân Lục chiến xuống Cam Ranh thì
tôi cũng xuống đây luôn.
Liền ngay sau đó,
Trung tá Nguyễn Đại Nhơn, Hạm trưởng HQ 404 báo về
Sài Gòn và chờ đợi kết quả. Cuối cùng
công điện trả lời: “Yêu cầu của Trung tướng Trưởng được
chấp thuận”. Quân nhân Thủy quân Lục chiến đã
xuống bờ được gọi trở lên tàu. Khi tất cả quân
nhân Thủy quân Lục chiến đã có mặt đầy đủ,
với khuôn mặt khắc khổ, Tướng Trưởng lặng lẽ trở vào
phòng của ông.
30
Năm
Nhìn
Lại:
Ngày
9/4/1975, Mặt Trận Long Khánh
Bùng Nổ
Vương Hồng Anh
*Tổng lược về
trận chiến Long Khánh ngày 9/4/1975
Theo tài liệu ghi trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn
Viên, sau khi đã điều động 3 sư đoàn chính
quy vào mặt trận Long Khánh, ngày ngày 9
tháng 4/1975, Cộng quân tung lực lượng tiến chiếm một đoạn
đường dài trên Quốc lộ 20 và đặt chướng ngại vật
tại ngã ba Dầu Giây, giao điểm của Quốc lộ 1 và
Quốc lộ 20. Cùngthời gian khai triển lực lượng tại khu vực
nói trên, rạng sángngày 9/4/1975, Cộng
quân đã pháo kích như mưa vào Căn cứ
Không quân Biên Hòa, Bộ Tư lệnh Quân
đoàn 3, Căn cứ Tiếp vận Long Bình.
Tại tỉnh lỵ Xuân
Lộc, từ 6 giờ sáng 30 cùng ngày (9/4/1975), Cộng
quân đã đồng loạt pháo kích khoảng
vào nhiều vị trí quanh tỉnh lỵXuân Lộc. Khoảng 1
giờ sau, Cộng quân tung trung đoàn 266 thuộcsư đoàn
341 chính quy Bắc Việt, và 1 tiểu đoàn chiến xa
T54, 2tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn đặc công
tấn công vào ngay thị xã.
Cũng với trận tấn
công vào vào thời gian đó, CQ tấn công
vào khu vực ngã ba Dầu Giây. Kế hoạch của Cộng
quân là muốn chiếm Dầu Giây để từ đây tấn
công vào tuyến phòng thủ của Trung đoàn 52
thuộc Sư đoàn 18 Bộ binh.
Ngay trước khi trận chiến xảy ra, để ngăn chận các đợt tấn
công của Cộng quân, Không quân VNCH đã
thựchiện nhiều phi tuần oanh tạc vào các vị trí
đóng quân của Cộngquân, tuy nhiên, các
phi tuần này đã gặp khó khăn do màn lưới
phòng không dày dặc của các trung
đoàn pháo binh phòng không của Cộng
quân được bố trí quanh vòng đai phòng tuyến
của Sư đoàn 18Bộ binh.
*Lực lượng VNCH tại mặt trận Long
Khánh
Về lực lượng tác chiến của
Quân lực VNCH tại mặt trận Long Khánh, theo tài
liệu của Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH được Đại tướng Cao Văn
Viên ghi lại trong hồi ký, thì tính đến
sáng ngày 9/4/1975, các đơn vị phòng ngự
gồm có toàn bộ lực lượng Sư đoàn 18 Bộ binh, được
tăng cường thêmTrung đoàn 8 Bộ binh thuộc Sư đoàn 5
Bộ binh, Thiết đoàn 3 , hai tiểu đoàn Biệt động
quân, hai tiểu đoàn Pháo binh. Các đơn vị
này được chia thành 3 lực lượng đặc nhiệm 316, 318
và 322 được phối trí án ngữ quanh vòng đai
thị xã Xuân Lộc. Tư lệnh mặt trận Long Khánh
là Chuẩn tướng Lê Minh Đảo,Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ
binh, chỉ huy lực lượng diện địa là Đại tá Phạm Văn
Phúc, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Long Khánh.
* Diễn tiến
các trận giao tranh trong ngày 9/4/1975.
Theo bản tin chiến sự do phát ngôn viên Quân
sự QL.VNCH phổ biến và được báo Chính Luận số ra
ngày 10/4/1975 phổ biến, diễn tiến các trận giao tranh
tại Xuân Lộc trong ngày 9/4/1975 được ghi nhận như sau.
Tại phòng tuyến quanh thị xã Xuân Lộc (tỉnh lỵ tỉnh
Long Khánh), 7 giờ 30 sáng, Cộng quân đã mở
nhiều đợt tấn công vào vị trí phòng ngự của
các chiến đoàn 316, 318 và 320. Tại trung
tâm tỉnh lỵ Long Khánh, trận chiến xảy ra ngay tại
nhà thờ Chánh tòa và giữa chợ Xuân
Lộc. Đối phương sử dụng thiết giáp có bộ binh tùng
thiết tấn công vào khu vực trung tâm tỉnh lỵ Long
Khánh. Để đẩy lùi địch quân ra khỏi thị xã,
Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động thêm lực
lượng đến tăng viện, trận chiến trở nên dữ dội hơn.
Lực lượng tăng viện
và trú phòng đã quyết chiến và đẩy
lùi đượcc ác đợt tấn công của Cộng quân. 4
chiến xa của địch đã bị bắn cháy gần chợ Xuân Lộc.
Đến 6 giờ chiều ngày 10/4/1975, các chốt cầm cự của Cộng
quân trong tại thị xã Xuân Lộc, nhà thờ
Chánh Tòa đã hoàn toàn bị đẩy lui,
300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa vớitrên 100 vũ
khí đủ loại, 2 binh sĩ Cộng quân bị bắt sống. Tại
các khu vực kế cận thị xã, trận chiến vẫn kéo
dài đến 10 giờ đêm mới tạm lắng sau khi lực lượng tăng
viện giải tỏa được áp lực của Cộng quân.
* Cuộc chuẩn bị
của Cộng quân tại mặt trận Long Khánh
Theo lời khai của 2 tù binh Cộng quân, những binh sĩ
này thuộc một trung đoàn mới từ miền Bắc xâm nhập
vào Nam từ đầu năm 1975.Trước khi tấn công vào thị
xã Xuân Lộc, đơn vị của hai tù binh này
đã được tập dượt trước với sự tham gia của một tiểu đoàn
thiết giáp.
Theo tài liệu
trong Tạp chí “Lịch sử Quân đội” CSVN số 3/1998 (do tham
mưu trưởng Hành quân Sư đoàn 18 Bộ binh Hứa Yến Lến
trích dẫn phổ biến trong KBC số 22, thì kế hoạch chuẩn bị
cuộc tấn công vào Xuân Lộc được Lê Đức Thọ, ủy
viên Bộ chính trị CSVN, kể lại diễn tiến như sau: ” Sau 2
lần B 2 xin quân thì tôi (Lê Đức Thọ)
vào chiến trường gặp lúc hội nghị miềm Bắc vưà kết
thúc. Lúc đó, tôi cũng được biết trước
đó, anh em (CSBV) đã đánh Thủ Thừa, đường số 4,
nhưng bị thiệt hại nặng nề, không giải quyết được chiến trường.
Ngoài ra địch còn chống cự như trận đánh
vào Đồng Dù, Nước Trong là những trận đánh
ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta (CSBV)
không phải là ít, tôi có ý định
toan bàn với các đồng chí (Bộ Tham mưu trung ương
của CQ tại miền Nam, nhưng nghe anh Dũng (Văn Tiến Dũng, đại tướng Tổng
tham mưu trưởng quân đội CSBV), tôi cũng nghĩ có thể
mình mới vào chưa rõ tình hình; cứ
để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là an hem
(CSBV) không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong
nặng, phải rút ra.
Cũng theo tài liệu
nói trên, lực lượng CQ tại mặt trận Long Khánh
trong những ngày đầu là quân đoàn 4 CSBV do
tướng CSBV Hoàng Cầm làm tư lệnh, chính uỷ
là tướng CSBV Hoàng Đình Hiệp. Các đại đơn
vị thống thuộc quân đoàn này gồm có: sư
đoàn 6 sư đoàn 7 và sư đoàn 341, sư
đoàn này vưà di chuyển từ Thanh Hóa
vào với thành phần Pháo binh cơ hữu. (Tài
liệu phổ biến trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên
có phần khác biệt về danh hiệu các sư đoàn
CSBV, theo đó 2 sư đoàn 3 và 341 là những
đại đơn vị đầu tiên của CSBV tại mặt trận Long Khánh, sau
đó được tăng cường thêm sư đoàn 7 CSBV).
NGÀY
15/4/1975:
Kịch
Chiến
Tại
Mặt Trận Long Khánh
Vương Hồng Anh
* Kịch chiến tại
ngã ba Dầu Giây, tỉnh Long Khánh
Tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây, đến ngày
15/4/1975, trận chiến tại đây bước vào ngày thứ 7.
Lực lượng bảo vệ phòng tuyến này là Trung
đoàn 52 Bộ binh với sự yểm trợ của Thiết giáp và
Pháo binh. Từ chiều ngày 14/4/1975 đến sáng
ngày 15/4/1975, các tiền đồn, công sự phòng
thủ của các tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 52 từ Kiệm
Tân về đến ấp Phan Bội Châu đã bị Cộng quân
tràn ngập. Chiều ngày 15/4/1975, trận chiến đã xảy
ra quyết liệt ngay tại xã Dầu Giây, ở ngã ba Quốc
lộ 1 và 20, giữa lực lượng trú phòng và 2
sư đoàn chính quy và 1 trung đoàn thiết
giáp của Cộng quân.
Thế trận và tương
quan lực lượng vô cùng chênh lệch. Lực lượng
trú phòng còn khoảng 2 ngàn quân sĩ
(kể cả các tiểu đoàn Địa phương quân của Tiểu khu
Long Khánh từ Định Quán rút về hợp cùng với
các đơn vị Trung đoàn 52 Bộ binh), trong khi đó
lực lượng củaCộng quân đông gấp 10 lần. Những người
lính VNCH tại phòng tuyến ngã ba Dầu Giây
đã phải chiến đấu với thế trận 1 chống 10. Trận chiến đã
diễn khốc liệt ngay từ những phút đầu. Cộng quân
pháo kích như mưa xuống các vị trí
công sự của quân trú phòng, sau đó
là đợt tấn công biển người.
Sau 3 giờ kịch chiến,
Cộng quân đã tràn ngập chia cắt các lực
lượng của quân lực VNCH án ngữ trên quốc lộ 1
và quốc lộ 20. Do trời tối, và 4 chiến xa M-48 của Lữ
đoàn 3 Thiết kỵ bị trúng đạn Pháo của Cộng
quân ngay từ đầu nên việc yểm trợ của Thiết giáp
đã không thực hiện được. Khoảng 8 giờ tối ngày
15/4/1975 thì toàn phòng tuyến ngã ba Dầu
Giây vị vỡ. Tất cả chiến xa và đại bác của
quân trú phòng VNCH bị hủy diệt. Về lực lượng Bộ
binh và Địa phương quân, chỉ còn khoảng 200 người
rút về tuyến sau.
Chiếm được ngã ba
Dầu Giây, 2 sư đoàn Cộng quân tiến về Xuân
Lộc. Tuy nhiên đại quân của Cộng sản Bắc Việt đã
không thể tiến ngay như Văn Tiến Dũng mong muốn, vì rằng
ngay sau khi phòng tuyến Dầu Giây thất thủ, hai quả bom
khổng lồ “Daisy Cutter” (do Mỹ cung cấp vào trung tuần
tháng 4/1975) đã được Không quânVNCH thả
xuống khu vực tập trung quân của Cộng quân, và một
đoàn xe dài chở quân lính và đại
bác Cộng quân trên quốc lộ 20. Theo các
tài liệu tình báo, hơn 7 ngàn Cộng
quân và hàng trăm vũ khí nặng, quân xa
CSVN bị tiêu diệt bởi hai trái bom này.
Theo hồi ký của
Đại tướng Cao Văn Viên, trong cuộc tiếp xúc với vị Phụ
tá Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ vào cuối
tháng 2/1975, Đại tướng Cao Văn Viên đã yêu
cầu Bộ Quốc phòng Mỹ đặc biệt cung cấp vũ khí nào
mà Không quân Việt Nam có thể sử dụng được.
Đó là loại bom 15 ngàn cân Anh có
tên là bom bạch cúc (Daisy Cutter) mà
Không quân Hoa Kỳ thường dùng thả bằng phi cơ C-130
để khai quang dọn bãi đáp trong các khu vực rừng
già. Thế nhưng, gần đến cuối cuộc chiến, Hoa Kỳ mới đáp
ứng yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu QL.VNCH, sau chuyến viếng thăm
của Đại tướng Weyand. Vào giữa tháng 4/1975, ba
trái chuyển đến trước và sau đó ba trái nữa
chuyển đến chỉ hai ngày trước khi cuộc chiến kết thúc.
Một chuyên viên Mỹ đi theo chuyến này để hướng dẫn
cho chuyên viên VN cách gắn ngòi nổ và
cách gắn bom lên phi cơ. Thế nhưng chuyên viên
Mỹ này không đến kịp. Trước tình hình khẩn
cấp và vì mức độ nguy hiểm nếu tồn trữ thứ bom này
tại Tân Sơn Nhất hay tại Long Bình nên Bộ Tổng Tham
Mưu và Bộ Tư lệnh Không quân VNCH phải chọn một phi
công VNCH kinh nghiệm để bay thả thử trái đầu tiên.
*Lữ đoàn 1
Nhảy Dù tại mặt trận Long Khánh
Như đã trình bày trong phần trước, để tăng viện
cho lực lượng phòng thủ tại mặt trận Long Khánh, Bộ Tư
lệnh Quân đoàn 3/Quân khu 3 đã điều động Lữ
đoàn 1 Nhảy Dù, lực lượng trừ bị cuối cùng, nhảy
vào mặt trận Xuân Lộc.
Theo kế hoạch, hai tiểu
đoàn Nhảy Dù được trực thăng vận xuống ấp Bảo
Bình, cách Xuân Lộc 5 km về hướng Nam. Theo lệnh
hành quân của Bộ Tư lệnh Chiến trường Long Khánh,
sau khi nhảy xuống ấp Bảo Bình, 2 tiểu đoàn Nhảy
Dù mở cuộc tấn công tái chiếm xã Bảo Định,
một xã nhỏ bé giữa rừng cao su, cách ấp này
2 km về hướng Bắc. Tin từ Trung tâm hành quân của bộ
Tư lệnh chiến trường Long Khánh cho biết xã này
đã bị một tiểu đoàn Cộng quân chiếm giữ từ
ngày 10 tháng 4/1975 khi địch tung đợt tấn công thứ
hai vào khu vực quanh tỉnh lỵ Long Khánh.
Tiểu đoàn Nhảy
Dù thứ ba được trực thăng vận xuống khu vườn cao su, cách
xã Bảo Định 1 km về phía Bắc. Từ vị trí này
tiểu đoàn được lệnh tiến đánh một tiểu đoàn đặc
công Cộng quân đang chiếm giữ vườn cây của cố Thống
tướng Lê Văn Tỵ. Theo sự phối nhiệm tác chiến, tiểu
đoàn phải thanh toán thật nhanh mục tiêu nói
trên để giải tỏa áp lực cho 1 tiểu đoàn Địa phương
quân đang bị Cộng quân bao vây. Cùng thời gian
này, tiểu đoàn thứ 4 được trực thăng vận xuống ngay trung
tâm thị xã Xuân Lộc để đánh bật các
đơn vị Cộng quân đang bao vây bộ Chỉ huy Tiểu khu, để bộ
chỉ huy này có thể rút về phía sau, hoạt
động chung với bộ Tư lệnh Hành quân Sư đoàn 18 Bộ
binh. Cuộc tiến quân tái chiếm xã Bảo Định
đã có những sự kiện bất ngờ, lạ lùng. Khi 2 đại
đội đầu tiên của Tiểu đoàn 9 Dù tiến đến gần trụ sở
xã Bảo Định thì trời đã về chiều. Điều làm
cho các đại đội trưởng ngạc nhiên là tại
phòng Thông tin xã, giáo đường Bảo Định, cờ
Việt Nam Cộng Hòa vẫn bay phất phới, trong khi cả xã im
vắng, không một bóng người, một sinh vật nào ở
ngoài đường.
Trung đội đi đầu của đại
đội 2 được lệnh khai hỏa. Ngay khi đó, các loạt đạn từ
bên trong bắn ra. Lại một bất ngờ nữa là tiếng súng
từ trong xã bắn ra không phải là từ loại
súng AK 47 của Cộng quân mà lại là tiếng
súng M 16 và đại liên 30 của Quân lực VNCH.
Vị tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 9 Dù cho lệnh
các đại đội ngưng tấn công và bố trí chờ
đợi. Vị tiểu đoàn trưởng gọi về Trung tâm Hành
quân Sư đoàn 18 Bộ binh xin xác nhận lần
chót về tình hình trước khi tiểu đoàn 9
Dù tấn công. Một sĩ quan có thẩm quyền của trung
tâm hành quân quả quyết là xã Bảo Định
đã bị Cộng quân chiếm trước đó vài
ngày và yêu cầu tiểu đoàn 9 Dù thanh
toán mục tiêu thật nhanh.
Khi tiểu đoàn
Dù sắp tấn công thì chuông nhà thờ Bảo
Định kéo lên, một sĩ quan Địa phương quân chạy ra
hô lớn là lực lượng trong xã không phải
là Việt Cộng. Thế là lệnh tấn công được hủy bỏ,
các đại đội Dù tiến hành cuộc lục soát
quanh khu vực đề phòng Cộng quân ẩn núp. Sau khi
kiểm soát xã Bảo Định, các đơn vị Dù tiến
nhanh về phía suối Gia Cốp, cũng nằm trong rừng cao su, gần vườn
cây của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ.
Lại thêm một bất
ngờ là khi lực lượng Dù vừa rời khỏi xã Bảo Định
khoảng 200 mét, khi đó trời đã tối, thì
“đụng đầu” một tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân.
Trận tao ngộ chiến diễn ra hơn một giờ trong rừng cao su, những người
lính Nhảy Dù với kinh nghiệm đánh đêm
và cận chiến đã tiêu diệt gần trọn cả tiểu
đoàn này. Theo tài liệu tình báo,
tiểu đoàn vũ khí nặng của Cộng quân từ Định
Quán được lệnh băng rừng di chuyển theo tỉnh lộ 332, bọc xuống
phía nam Xuân Lộc để chiếm đóng xã Bảo Định,
sau đó sẽ yểm trợ hỏa lực cho các đơn vị của sư
đoàn có bí số CT6 đang tập trung tại đồn điền
Xuân Lộc. Tuy nhiên vừa đến gần xã Bảo Định
thì tiểu đoàn Cộng quân đã bị Tiểu
đoàn 9 Nhảy Dù tiêu diệt.
Ngày
16/4/1975:
Kịch
Chiến
Tại
Phòng Tuyến Phan Rang
Vương Hồng Anh
* Lược ghi
tình hình chiến sự tại phòng tuyến Phan Rang
Như đã trình bày, phòng tuyến Phan Rang
được tăng cường lực lượng với nỗ lực chính là Lữ
đoàn 2 Nhảy Dù và các toán
thám sát của Nha Kỹ thuật, lực lượng tiếp ứng này
hoạt động tại hai khu vực Đông Bắc và Tây Bắc thị
xã Phan Rang. Trước đó, vào ngày 4/4/1975,
Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3 được thành lập
tại căn cứ Không quân Phan Rang do Trung tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi, nguyên Chỉ huy trưởng Trường Bộ Binh, giữ chức Tư lệnh Tiền
phương Quân đoàn 3. Với hệ thống chỉ huy mới, lực lượng
mới đến tăng cường, được sự yểm trợ hữu hiệu của Không
quân, tình hình an ninh, trật tự tại Ninh
Thuận-Bình Thuận được vãn hồi nhanh chóng.
Trong tuần lễ đầu, chỉ
có vài trận đụng độ nhỏ không đáng kể, chỉ
có áp lực của sư đoàn 7 CSBV ở cạnh sườn Phan
Thiết. Trong khi đó, tại Quân khu 3, áp lực của CQ
đã gia tăng tại mặt trận Biên Hòa-Long
Khánh. Trước tình hình đó, Trung tướng
Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3, quyết định
rút Lữ đoàn 2 Nhảy Dù từ Phan Rang về để củng cố
lực lượng trừ bị phản ứng cấp thời. Thay thế cho Lữ đoàn 2
Dù và tăng cường lực lượng phòng thủ Bình
Thuận là thành phần còn lại của Sư đoàn 2
BB được tái chính trang sau khi rút khỏi
Quân khu 1 vào hai tuần trước đó, một liên
đoàn Biệt động quân cũng vừa được củng cố cách
đó ba ngày và một chi đoàn M-113 thuộc
Quân đoàn 2 mới được tái thành lập.
Theo tài liệu ghi
trong hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên thì lực
lượng Sư đoàn 2 BB được tái thành lập với 2 trung
đoàn BB, 1 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly, 1
pháo đội 155 ly và chi đoàn M- 113. Việc chuyển
quân ra thay thế vừa sắp hoàn tất thì chiến trận
bùng nổ. Ngày 14 tháng 4/1975, Sư đoàn F-10
CSBV được tăng cường bởi các đơn vị của Sư đoàn 3 CSBV
tấn công vào cụm vị trí của Thiết giáp
và Pháo binh. Trước tình thế nguy kịch, Trung
tướng Nghi yêu cầu giữ lại một tiểu đoàn Nhảy Dù
đang chuẩn bị rút về để đối phó.
* Tổng trưởng
Quốc phòng Trần Văn Đôn thị sát mặt trận Phan Rang.
Ngày 15/4/1975, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (nội các của
Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn) đã bay ra Phan Rang để thị
sát tình hình. Sau khi nghe Trung tướng tướng
Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 3,
trình bày về quân số, vũ khí và thực
trạng chiến trường, Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn
hứa là sẽ tìm mọi cách để cung cấp các loại
vũ khí chiến lược như hỏa đạn CBU cho lực lượng bảo vệ
phòng tuyến Phan Rang. Sau khi về đến Sài Gòn, cựu
Trung tướng Trần Văn Đôn cho mời Thiếu tướng Smith, Tùy
viên Quân sự tòa đại sứ Mỹ, đến gặp ông tại
văn phòng Tổng trưởng Quốc phòng VNCH ở đường Gia Long.
Trong cuộc gặp này, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đã
yêu cầu Thiếu tướng Smith cung cấp cho Bộ Quốc phòng VNCH
những loại vũ khí mà Quân lực VNCH đang cần đến,
trong đó có hỏa đạn CBU, ống dòm và
máy truyền tin cho các đơn vị chiến đấu.
Trước yêu cầu của
Bộ Quốc phòng VNCH, Thiếu tướng Smith cho biết hiện trong kho vũ
khí của Hoa Kỳ không còn những loại này.
Tướng Smith hứa sẽ hỏi lại Bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại
Thái Bình Dương, vì vào thời gian
này vũ khí và đạn dược đều nằm ở những tổng kho
ngoài lãnh thổ Việt Nam. Rời Bộ Quốc phòng, Thiếu
tướng Simth ghé qua Văn phòng của Tổng Tham mưu trưởng
Quân lực VNCH, ông báo cho Đại tướng Viên biết
qua về nội dung cuộc gặp gỡ của ông với Tổng trưởng Quốc
phòng VNCH. Thiếu tướng Smith nói với Đại tướng
Viên: “Tôi được ông Tổng trưởng Quốc phòng mời
đến, tưởng ông bàn chuyện di tản gia đình của
ông, không ngờ ông bàn chuyện tiếp vận cho
các đơn vị ngoài tiền tuyến. Lần đầu tiên,
ông Tổng trưởng Quốc phòng bàn với tôi vấn đề
đó từ mấy tháng nay”.
* Ngày 16-4-1975: trận chiến cuối cùng
tại phòng tuyến Phan Rang
Trong khi Bộ Quốc phòng VNCH đang tìm cách để cung
cấp các vũ khí tối cần thiết cho các đơn vị tại
chiến trường thì tại mặt trận Phan Rang, ngày 16/4/1975,
Cộng quân tung 2 sư đoàn tấn công vào căn cứ
Không quân Phan Rang và trung tâm thị
xã. Phòng thủ vòng đai căn cứ Không
quân là 1 tiểu đoàn Nhảy Dù và 1 tiểu
đoàn Địa phương quân. Tiểu đoàn Nhảy
Dùø này thuộc Lữ đoàn 2 Dù chuẩn bị
về Sài Gòn theo kế hoạch chuyển quân của Bộ Tổng
Tham mưu nhưng do tình hình chiến sự rất nguy ngập,
nên Trung tướng Nghi đã xin giữ lại đơn vị này. Bộ
chỉ huy Lữ đoàn 2 Dù cũng còn ở lại Phan Rang khi
Cộng quân tấn công vào thị xã này. Tại
Trung tâm thị xã, lực lượng phòng thủ là một
trung đoàn của Sư đoàn 2 BB và một tiểu
đoàn Địa phương quân thuộc tiểu khu Ninh Thuận.
Hệ thống bảo vệ từ xa của phòng tuyến Phan Rang do một
liên đoàn Biệt động quân, 1 tiểu đoàn
Pháo binh, 1 chi đoàn M 113 phụ trách, đã
bị Cộng quân tấn công từ ngày 14 tháng
4/1975. Để dọn đường cho bộ binh tấn công vào căn cứ
Không quân Phan Rang và trung tâm thị
xã, Cộng quân đã pháo liên tục
vào các vị trí phòng ngự vòng quanh
căn cứ Không quân, đồng thời bắn phá dồn dập
vào khu vực phi cơ đậu và phi đạo để không cho phi
cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không quân cất
cánh. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn
công mạnh vào thị xã bằng ba hướng. Lúc bấy
giờ đại đa số cư dân Phan Rang đã di tản vào Nam,
thị xã chỉ còn lại quân nhân, cảnh sát
và một số công chức. Lực lượng phòng thủ thị
xã chống trả quyết liệt, nhưng do Cộng quân quá
đông nên lần lượt các tuyến phòng thủ trung
tâm đều bị chiếm. Cùng lúc đó, Cộng
quân tung một trung đoàn cắt đứt đường giao thông
trên Quốc lộ 1 ở khu vực Cà Ná cách thị
xã Phan Rang khoảng 48 km về hướng Tây Nam cốt để chặn
đường rút quân của các đơn vị VNCH.
* Ngày
16-4-1975: Phan Rang thất thủ
Không còn lực lượng trừ bị để tăng viện cho các
tuyến phòng thủ, trong khi đó căn cứ Không
quân bị tấn công dữ dội, nên sáng ngày
16 tháng 4/1975, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Tiền
phương Quân đoàn 3 kiêm Tư lệnh mặt trận Phan Rang,
họp khẩn cấp với Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6
Không quân, sư đoàn đang phụ trách căn cứ
Không quân Phan Rang, và Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt,
Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh, để bàn kế hoạch rút
quân. Giải pháp mà các vị tướng chọn lựa
là phân tán và rút theo cá
nhân.
Tình hình
tại bộ Tư lệnh của Tướng Nghi vào lúc đó rất nguy
kịch, do hệ thống truyền tin bị trúng đạn pháo
kích của Cộng quân, nên Bộ Tư lệnh tiền phương
Quân đoàn 3 ở Phan Rang đã không còn
liên lạc được với Bộ Tư lệnh chính của Quân
đoàn 3/Quân khu 3 đóng tại Biên Hòa,
cũng như Bộ Tổng tham mưu ở Sài Gòn. Đến trưa ngày
16/4/1975, thị xã Phan Rang bị Cộng quân chiếm.
Tại Bộ Tư lệnh mặt trận
Phan Rang đặt trong căn cứ Không quân, Cộng quân xua
quân tiến sát đến vòng đai phi trường, Trung tướng
Nghi và Chuẩn tướng Sang cho lệnh các sĩ quan và
đơn vị trú phòng tùy nghi phân tán.
Riêng Chuẩn tướng Nhựt được trực thăng (dành riêng
cho Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh) đáp xuống ngoài
hàng rào phi trường Phan Rang bốc đưa ra biển. Trực thăng
chở Tướng Nhựt gặp tàu Hải quân. Tướng Trần Văn Nhựt kể
lại rằng từ trực thăng ông nhảy xuống biển và được chiến
hạm HQ 3 vớt lên. Từ HQ3, Tướng Nhựt dùng máy
truyền tin của Hải quân báo cáo về Sài
Gòn là Phan Rang đã thất thủ.
Trở lại với tình
hình tại căn cứ Không quân Phan Rang, sau
hàng loạt pháo kích bắn phá căn cứ phi
trường, doanh trại và hệ thống công sự phòng thủ
trong căn cứ, Cộng quân điều động bộ binh và thiết
giáp đánh thẳng vào căn cứ. Trong tình
hình nguy kịch, Bộ Chỉ huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù
đã mở đường máu ra khỏi phi trường và “bắt tay”
Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù ở ngoài.
Sau đó, Đại
tá Nguyễn Thu Lương, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Nhảy
Dù, đã liên lạc được với phi cơ quan sát, sĩ
quan liên lạc của Sư đoàn Nhảy Dù trên phi cơ
yêu cầu Đại tá Lương tìm bãi đáp để
25 trực thăng sẽ hạ cánh bốc quân đi. Vị lữ đoàn
trưởng lữ đoàn 2 Nhảy Dù trình với Trung tướng
Nghi đưa bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn và Sư
đoàn 6 Không quân di chuyển đến bãi trống
phía trái phi trường để lên chuyến trực thăng đầu,
còn toàn bộ anh em Nhảy Dù sẽ di chuyển bộ đi về
hướng núi Cà Núi để gặp một số đại đội Nhảy
Dù bố phòng tại đây.
Theo tài liệu của
cựu thiếu tá Nhảy Dù Trương Dưỡng, thì Trung tướng
Nghi đã từ chối kế hoạch bảo vệ sự an toàn cho ông
và các sĩ quan tham mưu của Quân đoàn tiền
phương, ông nói với Đại tá Lương: “Báo cho
đoàn trực thăng trở về túc trực, sáng mai sẽ
tính. Bây giờ chúng ta tiếp tục di chuyển về
Cá Ná lập phòng tuyến chận địch tại đó”.
Nghe Trung tướng Nghi nói như vậy, Đại tá Lương
đành cho lệnh bố trí chờ đêm tối băng đường ra khỏi
vòng vây của Cộng quân. Về phần Trung tướng Nghi
và Chuẩn tướng Sang, do từ chối kế hoạch đầy tình huynh
đệ chi binh của Đại tá Lương, nên bị kẹt lại và
cuối cùng đã bị CQ bắt.
Ngày
22/4/1975:
Quân
Đoàn
3
Lập Phòng Tuyến Trảng Bom
Vương Hồng Anh
*Diễn tiến cuộc
triệt thối của Lực lượng VNCH khỏi Long Khánh
Sau hơn 10 ngày quyết chiến với 4 sư đoàn Cộng
quân, vào ngày 20 tháng 4/1975, toàn
bộ lực lượng VNCH tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc được lệnh
rút khỏi chiến trườngnày để về Phước Tuy. Cuộc rút
quân được diễn ra từ chiều ngày 20 tháng 4/1975,
đến sáng ngày 22/4/1975, tất cả các đơn vị
đã có mặt tại các vị trí mới do Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 3/Quân khu 3 phối trí.
Theo kế hoạch rút
quân, lực lượng tham chiến tại Xuân Lộc sẽ sử dụng
liên tỉnh lộ 2 phía Nam Long Khánh, rút về
Phước Tuy theo thứ tự: Sư đoàn 18 Bộ binh và các
đơn vị trực thuộc. Bộ chỉ huy Tiểu khu Long Khánh và
các tiểu đoàn Địa phương quân của tiểu khu
này. Lữ đoàn 1 Dù và tiểu đoàn 3
Pháo binh Dù.
Lộ trình
rút quân là các cánh quân sẽ
xuất phát từ Tân Phong, Long Giao, theo Liên tỉnh lộ
2 về Phước Tuy. Theo kế hoạch, Lữ đoàn 1 Dù vẫn tiếp tục
giao chiến và đánh bật Cộng quân ra khỏi các
vị trí trọng điểm trong thị xã và là lực
lượng hậu đoạn sẽ rút đi sau cùng. Các đơn vị của
Sư đoàn 18 Bộ binh và lực lượng Địa phương quân
rút đi ngay trong buổi chiều. Cánh quân của Sư
đoàn 18 BB rút đi tương đối an toàn. Còn
cánh quân do Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Long Khánh chỉ huy đã
bị Cộng quân chận đánh. Gần tối 20/4/1975, khi Đại
tá Phúc và bộ chỉ huy của ông đang di
chuyển, một đơn vị Cộng quân từ trên một đồi cao sát
với Liên tỉnh lộ 2, đã bắn nhiều loạt đạn B 40 và
bích kích pháo xuống đoàn quân.
Là lực lượng đi
đoạn hậu (rút quân sau cùng), các tiểu
đoàn của Lữ đoàn 1 Dù đã phải tử chiến với
các trung đoạn Cộng quân trên đường lui binh. Do
phải bảo mật cho cuộc rút quân, đồng thời để nghi binh,
nên chỉ đến tối 20/4/1975, các tiểu đoàn Dù
mới nhận được lệnh rời bỏ chiến tuyến. Tại khu vực Bảo Định, 7 giờ
tốingày 20/4/1975, trong khi lực lượng Dù đang giao tranh
quyết liệt với Cộng quân thì được lệnh rút
quân. Các đơn vị phân thành 2 bộ phận: một bộ
phận tiếp tục đánh chận Cộng quân cho bộ phận khác
rút. Nói một cách khác, Lữ đoàn 1
Dù vừa đánh vừa tiến hành kế hoạch di chuyển
quân về phòng tuyến mới. Lộ trình rút
quân của Lữ đoàn Dù dài hơn 40 cây số
đường rừng ven theo Liên tỉnh lộ 2 từ Tân Phong đến Đức
Thành, Long Lễ về Bà Rịa…
Trong cuộc rút
quân khỏi Xuân Lộc và khu vực phụ cận, các
chiến sĩ Dù được lệnh mang theo tất cả cấp số đạn và lựu
đạn, quân trang quân dụng. Nhưng có một điều
đã làm xót xa các cấp chỉ huy và
binh sĩ Dù, đó là những chiến sĩ Dù bị
thương nặng trong những trận giao tranh trước khi có lệnh
rút quân đang chờ đợi tải thương. Với những người bị
thương, nhưng còn tỉnh táo, còn có thể đi
được thì từng tổ binh sĩ 4 người sẽ thay nhau dìu đi,
còn với những chiến binh Dù bị trọng thương thì
thật đau lòng. Trong một tình thế bất khả kháng,
tất cả những người lính Dù đều khóc khi phải cố
nén đau thương từ biệt những đồng đội của mình đang bị
trọng thương ở các chiến hào.
Trước phút lên đường, nhiều người lính
Nhảy Dù đã òa lên khóc lớn, ôm
chầm lấy đồng đội, máu từ áo bạn thấm sang áo
mình, lần đầu tiên và cũng lần cuối cùng họ
phải để bạn bè bị thương vĩnh viễn ở lại với chiến trường… Họ
sửa lại ngay ngắn thế nằm của đồng đội, vuốt từng đôi mắt sau khi
các quân y sĩ, y tá quân y đã
chích cho thương binh những mủi thuốc an thần. Nón sắt
của thương binh được lấy ra, đầu của họ được gối trên ba
lô, súng cá nhân để bên cạnh. Như một
thước phim bi tráng trong các tác phẩm điện ảnh về
đề tài chiến tranh, những người lính Dù đứng
nghiêm, chào vĩnh biệt đồng đội. Rồi, đoàn
quân lên đường.
Đến 9 giờ tối ngày
20 tháng 4/1975, các tiểu đoàn Dù ra đến
Quốc lộ 1. Tại đây, đông đảo dân chúng của
các khu Bảo Định, Bảo Toàn, Bảo An đã đứng sẵn ở
hai bên đường và xin đi theo các chiến sĩ Dù
để di tản. Cuộc hành trình gian khó bắt đầu…
*Những cảm tử
quân trên đường rút quân
Theo kế hoạch rút quân, ngoại trừ Tiểu đoàn 3
Pháo binh Dù được di chuyển trên đường lộ với sự
bảo vệ an ninh lộ trình của đại đội Trinh sát Dù,
các tiểu đoàn Dù đều phải băng rừng mở đường di
chuyển. 4 giờ sáng ngày 21/4/1975, tại ấp Quí Cả,
gần địa giới hai tỉnh Long Khánh và Phước Tuy,
đoàn xe chở Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù
và Đại đội Trinh Sát Dù bị 2 tiểu đoàn Cộng
quân phục kích. Pháo đội C và một trung đội
của đại đội Trinh Sát Dù bảo vệ pháo đội
này đã bị tổn thất, đa số quân sĩ đều bị thương
vong trước các đợt tấn công biển người của Cộng
quân. Trên lộ trình triệt thối, đại đội đi đầu của
Tiểu đoàn 9 Dù đã đụng độ nặng với Cộng quân
tại thung lũng Yarai, dưới chân núi Cam Tiên. Đại
đội này đã bị những “chốt” của Cộng quân từ
trên cao bắn xuống. Cuộc giao tranh kéo dài nhiều
giờ. Để diệt các chốt của Cộng quân, các tốn cảm tử
Dù được thành lập ngay tại trận địa với những quân
nhân tình nguyên. Những cảm tử quân này
mặc áo giáp, đeo súng phóng hỏa tiển
cá nhân M 72, lựu đạn, bò đến các “chốt”
Cộng quân ở trên núi cao. Có nhiều tốn vừa
bò lên núi, đã bị cả chục trái lựu
đạn của địch từ trên cao ném xuống.
Họ phải lách thật
nhanh, nằm xuống, trước khi lựu đạn địch quân nổ, hoặc chụp lấy
và mém trả lại. Trong trường hợp bắn M-72 nếu không
có kết quả, họ phải thay đổi ngay vị trí để tránh
sự bắn trả của Cộng quân.
Có những người
lính Dù đã làm cho mọi người khâm
phục về sự dũng cảm phi thường của họ. Chiếc bunker cuối cùng
của Cộng quân trên núi Cam Tiên vô
cùng kiên cố. Đó là hầm chỉ huy của một đơn
vị CSBV. Hai cảm tư quân Dù đã bắn M72 vào
bunker này nhưng vẫn không hạ được mục tiêu. Một
đồng đội của họ từ lưng chừng núi đứng lên, để M 72
trên vai, bắn thẳng vào mục tiêu. Từng loạt đạncủa
Cộng quân bắn trả tới tấp. Nhưng người xạ thủ gan dạ này
vẫn đứng thẳng không chịu cúi xuống tiếp tục bắn: chiếc
bunker chỉ huy và các ổ súng nặng của Cộng
quân bị hủy diệt. Thanh tốn xong mục tiêu này,
các đơn vị Dù tiếp tục cuộc hành trình gian
khó tiến về Bà Rịa. (Phần này biên soạn theo
tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, 1 nhà báo
quân đội, và lời kể của một số nhân chứng)
* Tái phối
trí tại phòng tuyến mới: Trảng Bom-Long
Thành-Phước Tuy.
Ngày 22 tháng 4/1975, cuộc rút quân
hoàn tất. Sư đoàn 18 Bộ binh sau khi về đến Long Lễ trong
ngày 21/4/1975, đã được được Bộ Tư lệnh Quân
đoàn 3 cho di chuyển nghỉ dưởng quân hai ngày tại
Long Bình, sau đó các trung đoàn và
đơn vị thuộc dụng được điều động đi tăng cường phòng thủ tuyến
mặt Đông thủ đô Sài Gòn, kéo
dài từ Tổng kho Long Bình đến Kho đạn Thành Tuy
Hạ, tiếp cận với lực lượng của các quân trường như Trường
Bộ Binh, Trường Thiết Giáp;
Lữ đoàn 1 Dù được bố trí giữ Phước Tuy, bảo vệ
Quốc lộ 15 từ LongThành về Bà Rịa, và là
lực lượng tiếp ứng cứu Vũng Tàu khi thành phố này
bị tấn công.
Với kế hoạch phối
trí mới của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 để bảo vệ
Sài Gòn, kể từ sáng 22/4/1975, phòng tuyến
án ngữ phía Bắc và phía Đông của
Quân đoàn 3 và Quân khu 3 được thành
hình với liên tuyến Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy.
Lực lượng chính tại phòng tuyến này có Sư
đoàn 18 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Dù, Lữ đoàn 3
Thiết kỵ (do Chuẩn tướng Trần Quang Khôi chỉ huy) và Lữ
đoàn 468 Thủy quân Lục chiến. Trước đó, Lữ
đoàn 147 và 258 Thủy quân lục chiến đã được
tăng phái cho Quân đoàn 3 và là lực
lượng bảo vệ phía Bắc của phi trường Biên Hòa.
Về lực lượng phòng
thủ vòng đai xa của Sài Gòn, tính đến
ngày 22 tháng 4/1975, có 3 sư đoàn Bộ binh:
Sư đoàn 18 BB do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy; Sư đoàn
25 Bộ binh do Tướng Lý Tòng Bá chỉ huy, phụ tại
phòng tuyến Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An; Sư đoàn 5
Bộ binh do Tướng Lê Nguyên Vỹ chỉ huy, phụ trách
phòng tuyến Bình Dương.
23/4/1975:
Các
Cuộc
Dàn
Xếp
Giải Quyết Tình Hình VNCH
Vương Hồng Anh
* Cuộc họp tại Bộ Tổng Tham Mưu
Để ổn định tình thế, 6 giờ chiều ngày 23/4/1975, với chức
danh là Tổng trưởng Quốc phòng, cựu Trung tướng Trần Văn
Đôn đã họp các tướng lĩnh tại văn phòng Tổng
tham mưu trưởng. Tại buổi họp này, cựu Tướng Đôn
nói “Dù có thương thuyết để đình chiến,
chúng ta cũng cố giữ những gì chúng ta có”.
Vị Tổng trưởng Quốc phòng yêu cầu Đại tướng Viên,
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3
& Quân khu 3 sắp xếp lại tuyến phòng thủ để bảo vệ
Sài Gòn và đoạn đường từ Sài
Gòn.Cũng tại cuộc họp này, Đại tướng Viên đã
báo cáo tình hình chiến sự và khả
năng phòng ngự của Quân lực VNCH tại khu vực vòng
đai thủ đô Sài Gòn và khu vực các
tỉnh lân cận. Tướng Viên cho biết lực lượng Cộng quanh
chung quanh Sài Gòn và Biên Hòa
đã lên đến 15 sư đoàn, trong đó có 1
sư đoàn pháo binh, nhiều lữ đoàn thiết giáp
và các đơn vị phòng không sử dụng hỏa tiển
SAM.
* Các cuộc
dàn xếp về nhân sự lãnh đạo VNCH trong những
ngày cuối của cuộc chiến
Cùng với những diễn biến dồn dập về quân sự, những dị biệt
và bất đồng về vấn đề nhân sự lãnh đạo miền Nam
cũng đang được các nhà hoạt động chính trị
bàn thảo ráo riết, trong đó có cả sự tham
dự “nhiệt tình” của Đại sứ quán Pháp.
Theo hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, sau khi Tổng
Thống Thiệu từ chức, Tòa Đại sứ Pháp đã nhảy
vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ
quán Pháp là ông Brochand đã gặp cựu
Trung tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ là Phó
Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng của nội các
do ông Nguyễn Bá Cẩn làm Thủ tướng. Nhà
ngoại giao này đã cho Phó Thủ tướng Đôn biết
sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội
và nhấn mạnh thêm: “Nếu có thương thuyết thì
Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà
thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Minh cần
sự hợp của Tướng Đôn.
Trước khi ra về,
ông Brochard hỏi Phó Thủ tướng Trần Văn Đôn:
Ông Minh có thể gọi điện thoại cho ông được
không? Tướng Đôn gật đầu. Mười phút sau, ông
Dương Văn Minh gọi điện thoại cho Tướng Đôn và xin một
cuộc hẹn. Mười giờ tối ngày 22/4/1998, Tướng Đôn gặp
ông Minh. Tướng Đôn hỏi ông Minh:
- Anh có thể thương thuyết với bên kia được không?
- Được, nhưng phải thật lẹ, nếu không chúng ta không
có hy vọng.
Tướng Đôn cho rằng
ông Minh biết Cộng sản Hà Nội đang chờ ông nắm quyền
rồi sẽ thương thuyết. Ông Minh chưa tiếp xúc với Tổng
thống Trần Văn Hương vì vị tân Tổng thống không
thích ông Minh. Theo Tướng Đôn, việc này rất
bất lợi nhất là sau khi VNCH bỏ Xuân Lộc. Ông Minh
đề nghị Tướng Đôn đi gặp Đại sứ Mỹ Martin để thuyết phục Tổng
thống Trần Văn Hương. Rời nhà ông Minh, ngay trong
đêm 22/4/1975, Tướng Trần Văn Đôn đã đến nhà
đại sứ Mỹ Martin dù đã gần 12 giờ khuya. Tướng Đôn
kể lại khi ông vừa ngồi xuống trong phòng khách
thì sĩ quan tùy viên của Đại sứ Hoa Kỳ đến
nói nhỏ bên tai ông Martin. Vị đại sứ xin lỗi Tướng
Đôn, bước vào phòng riêng, khi trở ra
ông nói: Có một phi cơ xin phép đáp
xuống phi trường Manila, vì bên đó Phi Luật
Tân nghi trên phi cơ có Tổng thống Thiệu nên
họ điện thoại hỏi thử có đúng không. Hỏi lại
thì biết Tổng thống Thiệu còn ở trong Dinh Độc Lập.
Cựu Tướng Đôn xin
lỗi ông Martin vì tình hình bắt buộc
nên phải đến gặp vị đại sứ Hoa Kỳ trong giờ khuya. Sau đó,
Tướng Đôn trao đổi với ông Marin về ý kiến của
ông Dương Văn Minh và yêu cầu Đại sứ Martin đề nghị
Tổng thống Trần Văn Hương giao quyền cho ông Minh đứng ra thương
thuyết với CSBV. Ông Martin hứa với Tướng Đôn là sẽ
cố thuyết phục Tổng thống Hương. Bấy giờ là 1 giờ sáng
ngày 23/4/1975…
Cũng theo tài liệu
của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, để tìm một giải
pháp ổn định trước những biến động thời cuộc, ngày 23
tháng 4/1975, một một số tướng lãnh và sĩ quan cao
cấp do Trung tướng Nguyễn Bảo Trị, nguyên Chỉ huy trưởng Trường
Chỉ huy Tham mưu, lúc bấy giờ đang giữ chức Tổng cục trưởng
Quân Huấn; Trung tướng Vĩnh Lộc, nguyên Chỉ huy trưởng
trường Cao Đẳng Quốc Phòng, hướng dẫn, đã đến tư dinh của
Tướng Trần Văn Đôn. Phái đoàn này đề nghị
Tướng Đôn với chức danh là Tổng trưởng Quốc phòng
chỉ định người thay thế Đại tướng Cao Văn Viên trong chức vụ Tổng
tham mưu trưởng vì theo các vị này, Đại tướng
Viên không còn thiết tha với quân đội nữa.
Trước đề nghị của một số
tướng lãnh, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn nói:
“Tình thế sắp thay đổi, tôi không cần chỉ định ai,
tự nhiên cũng có người thay thế.” Khi đó, Trung
tướng Nguyễn Bảo Trị đề nghị: “Thôi Trung tướng làm Tổng
trưởng Quốc phòng kiêm luôn Tổng Tham Mưu trưởng
đi.” Cựu Trung tướng Đôn từ chối và nói: “Tôi
đã về hưu lâu rồi, lâu nay không còn
mặc quân phục nữa, nhưng nếu cần tôi cũng có thể đảm
nhận vai trò Tổng Tham mưu trưởng lúc khó khăn
này. Nhưng tôi thấy tình thế biến chuyển quá
mau, chưa biết nó sẽ đi tới đâu.”
Tướng Trần Văn Đôn
hỏi lại Trung tướng Trị: “Vậy thì ai có thể thay thế Đại
tướng Viên?” Trung tướng Trị trả lời: “Trung tướng Nguyễn Đức
Thắng, gần hai năm nay ông ấy không có làm
việc.”
Theo lời cựu Trung tướng
Trần Văn Đôn ghi lại trong hồi ký thì ông
biết rõ khả năng của Trung tướng Thắng và đã gợi
ý nhưng Tướng Thắng đã từ chối. Tướng Thắng xuất
thân khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định-Thủ Đức năm 1952,
là một trong bốn tiểu đoàn trưởng đầu tiên của binh
chủng Pháo binh VNCH. Từ 1960-1969, ông đã giữ
nhiều chức vụ quan trọng: đầu năm 1961, khi còn ở cấp trung
tá, ông đã được bổ nhiệm giữ chức Tư lệnh Sư
đoàn 1 Bộ binh và chỉ 1 tháng sau, được thăng cấp
đại tá. Tháng 10/1961, ông bàn giao chức vụ
nói trên cho Đại tá Nguyễn Văn Thiệu (1967
là Tổng Thống VNCH) và về làm Tư lệnh Sư
đoàn 5 Bộ Binh, cuối năm 1962, ông được điều động về Bộ
Tổng Tham mưu, phụ trách về kế hoạch hành quân;
được thăng Chuẩn tướng vào tháng 8 năm 1964, thăng Thiếu
tướng tháng 11/1965 và giữ chức Tổng trưởng bộ Xây
dựng Nông thôn trong nội các của Chính phủ
Nguyễn Cao Kỳ (từ 1965-1967), Tổng Tham mưu phó đặc trách
Địa phương quân-Nghĩa quân (tháng 9 năm 1967); cuối
tháng 1/1968 được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân
đoàn 4 & Quân khu 4 (năm 1968), thăng trung tướng
vào tháng 5/1968, một tháng sau ông xin
thôi giữ chức tư lệnh Quân đoàn, trở lại Bộ Tổng
tham mưu giữ chức phụ tá Kế hoạch của Tổng Tham mưu trưởng (1969
đến 1972); năm 1973, ông xin nghỉ dài hạn không
lương 5 năm để hoàn tất chương trình cử nhân
và cao học toán (trước đó ông đã thi
đổ một số chứng chỉ Toán của đại học Khoa học với hạng ưu).
Tại cuộc gặp gỡ
nói trên, một số tướng lãnh còn đề nghị với
cựu Tướng Đôn là nên bắt tất cả những người Mỹ
còn lại làm con tin để Mỹ tiếp tục viện trợ giữ miền Nam.
Tướng Đôn trả lời với phái đoàn là chuyện
đó đã có tin đồn rồi, thế nào Mỹ cũng biết
và có kế hoạch đối phó. Lực lượng Thủy quân
Lục chiến Mỹ đang chờ ở ngoài khơi sẽ đổ bộ với lực lượng
hùng hậu, chừng đó, theo Tướng Đôn sẽ có đổ
máu và tình thế sẽ rối rắm nguy ngập hơn nữa. Cựu
Tướng Đôn cũng phân tích là hơn một
ngàn người Mỹ còn lại ở Việt Nam muốn cùng với
Quân đội Việt Nam Cộng Hòa để cùng chiến đấu đồng
thời thúc đẩy, xoay chuyển dư luận Mỹ yểm trợ cho miền Nam. Cuối
cùng cựu Trung tướng Trần Văn Đôn khuyên mọi người
là cần phân biệt chính quyền Mỹ và những
người Mỹ ở Sài Gòn. Ông nói rằng
chính quyền Mỹ ở Sài Gòn chỉ có ông
đại sứ đại diện mà thôi, bỏ rơi Việt Nam là
chính phủ Mỹ và Quốc hội Mỹ, chứ không phải
là những người Mỹ đang ở Sài Gòn, nếu bắt một số
người Mỹ ở Sài Gòn làm con tin thì tội
nghiệp cho họ và chẳng có ích lợi gì.
27-4-1975:
Quốc
Hội
Họp
Khẩn
Bầu Tân Tổng Thống VNCH
Vương Hồng Anh
*Quốc hội VNCH
họp khẩn xét 2 đề nghị của Tổng thống VNCH Trần Văn Hương về
chức vụ Tổng Thống và Thủ tướng VNCH
Sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống Trần Văn Hương đã
mở cuộc họp đặc biệt tại tư dinh với thành phần tham dự gồm
các ông: Trần Văn Linh, Chủ tịch Tối cao Pháp viện;
Trần Văn Lắm, Chủ tịch Thượng viện; Phạm Văn Út, Chủ tịch Hạ
Viện; cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng
kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (Thủ tướng Nguyễn Bá
Cẩn đã từ chức từ 23-4-1975), và 1 phụ tá Tư
pháp của Tổng thống. Tại cuộc họp này, Tổng thống Trần
Văn Hương nhắc lại 2 biện pháp mà ông đã đề
nghị trong phiên họp với Quốc hội ngày 26/4/1975:
Thứ 1: Giao cho Tổng thống đương nhiệm toàn quyền chỉ định 1 Thủ
tướng toàn quyền.
Thứ 2: Bầu ông Dương Văn Minh làm Tổng thống.
Theo lời kể của Cựu Trung
tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong cuốn Việt Nam Nhân Chứng,
trong phiên họp sáng ngày 27/4/1975, Tổng thống
Trần Văn Hương trình bày diễn tiến cuộc họp riêng
với ông Dương Văn Minh, và cho biết “ông có
mời ông Minh làm Thủ tướng toàn quyền nhưng
ông Minh không nhận, mà yêu cầu ông phải
từ chức, giao chức vụ Tổng thống cho ông Minh để ông Minh
có toàn quyền nói chuyện với Việt Cộng”.
Chiều ngày 27
tháng 4/1975, Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn
cầm đầu một phái đoàn gồm nhiều Tướng lãnh trong
Bộ Tổng Tham mưu và vị Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô đến tham dự
cuộc họp đặc biệt của lưỡng viện Quốc hội. Phái đoàn của
Tổng trưởng Quốc phòng đến trước, và khoảng 7 giờ 30
phút tối ngày này thì có 138 nghị
sĩ, dân biểu hiện diện. Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn
Đôn tóm tắt tình hình quân sự:
Sài Gòn đang bị bao vây bởi 15 sư đoàn CSBV
đặt dưới quyền của ba quân đoàn CSBV. Quốc lộ Sài
Gòn-Vũng Tàu bị cắt đứt và CQ đang tiến về Long
Bình. Đến 8 giờ 20 ngày 27 tháng 4/1975, Đại hội
đồng lưỡng viện Quốc hội bỏ phiếu (136 thuận-2 chống) chấp thuận trao
chức vụ Tổng thống VNCH cho ông Dương Văn Minh.
* Cuộc gặp gỡ
giưã Tổng thống Trần Văn Hương và cựu Đại tướng Dương Văn
Minh.
Như đã trình bày, sau khi Tổng Thống Thiệu từ chức
vào ngày 21/4/1975, Tòa Đại sứ Pháp
đã nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn
chính trị của sứ quán Pháp là ông
Brochand đã gặp Tướng Trần Văn Đôn, lúc bấy giờ
là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc
phòng. Ông Brochand đã cho Tướng Đôn biết sứ
quán Pháp có liên lạc với Hà Nội
và nhấn mạnh rằng “Nếu có thương thuyết thì Cộng
sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà
thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Dương Văn
Minh cần sự hợp của Tướng Trần Văn Đôn.
Theo sự sắp xếp trung
gian của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn và cựu Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm, 10 giờ sáng ngày 24 tháng
4/1975, cựu Đại tướng Dương Văn Minh đã đến gặp Tổng Thống Trần
Văn Hương tại tư dinh của Đại tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham mưu.
Tiếp đó, vào buổi trưa, cựu Trung tướng Đôn cũng
đến nhà Đại tướng Khiêm để tìm hiểu tình
hình, ông đã gặp bác sĩ Nguyễn Lưu
Viên, cựu Phó Thủ tướng và Nguyễn Văn Hảo,
Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Canh nông của nội
các Nguyễn Bá Cẩn (nội các này từ chức
ngày 23/4/1975 và được yêu cầu xử lý thường
vụ trong khi chờ nội các mới). Tại cuộc gặp này,
các nhân vật trên đã nói là
cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa Tổng thống Trần Văn Hương và ông
Dương Văn Minh đã thất bại vì ông Minh từ chối ghế
“Thủ tướng toàn quyền”.
Trước tình
hình như thế, Đại tướng Khiêm đề nghị cựu Trung tướng
Đôn nên nhận chức vụ thủ tướng để thương thuyết. Cựu Tướng
Đôn đã kể cho Đại tướng Khiêm nghe lời của ông
Brochand là Pháp đã liên lạc với CS
Hà Nội và phía CS chỉ muốn nói chuyện với
ông Minh mà thôi. Sau đó cựu Trung tướng
Đôn đến thẳng Tòa Đại sứ Pháp. Các
viên chức cao cấp sứ quán này lặp lại ý kiến
trên và cho biết thêm rằng Cộng sản chờ đến
ngày Chủ nhật 27/4/1975, nếu không tiến triển gì
thì CQ sẽ pháo kích vào Sài
Gòn. Theo lời kể của cựu Trung tướng Đôn, sau khi nghe tin
này, ông lo ngại cho dân chúng sống chen
chúc trong thành phố bị trúng đạn pháo của
Cộng quân bắn bừa bãi, nên ông hứa sẽ cố gắng
dàn xếp để tìm một giải pháp tạm thời. Chiều
hôm đó, Đại tướng Khiêm điện thoại cho cựu Tướng
Đôn biết là Tổng Thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định
ông Nguyễn Ngọc Huy làm Thủ tướng. Theo Đại tướng
Khiêm, ông Huy là người chống Cộng triệt để
nên khó có thể hòa giải được. Cựu Trung
tướng Đôn điện thoại báo cho cựu Đại tướng Minh, ông
Minh mời cựu Trung tướng Đôn lại nhà để bàn
tính tìm một giải pháp.
Lúc 5 giờ 45
ngày 24/4/1975, cựu Trung tướng Đôn vào Dinh Độc
Lập thì gặp ông Nguyễn Ngọc Huy đang nói chuyện với
ông Nguyễn Xuân Phong, Quốc vụ khanh đặc trách
hòa đàm, từ Pháp mới về. Vừa lúc đó,
Đại sứ Martin từ trong văn phòng Tổng Thống Trần Văn Hương đi
ra. Cựu Trung tướng Đôn hỏi Đại sứ Mỹ là có phải
Tổng Thống Hương chỉ định ông Huy làm thủ tướng hay
không. Nhưng ông Martin đã trả lời là
không có chuyện đó. Thế nhưng, sau đó, Đại
tướng Khiêm vào gặp Tổng thống Hương và ra
báo cho cựu Trung tướng Đôn biết là ông Hương
sẽ chỉ định ông Huy làm thủ tướng. Đến lượt ông Huy
vào gặp Tổng thống Hương. Cuối cùng là Tổng trưởng
Quốc phòng Trần Văn Đôn và Đại tướng Viên
vào trình bày cho Tổng thống Hương tình
hình quân sự: Cộng quân đang tiến sát
vòng đai Sài Gòn, vũ khí, quân dụng,
đạn dược thiếu, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút… Nghe
xong phần trình bày, Tổng Thống Hương nhìn Đại
tướng Viên và nói: “Ông sẽ làm Tổng tư
lệnh Quân đội”. Tổng Thống Hương nói tiếp rằng ông
sẽ chia xẻ với số phận của anh em quân nhân trên
các chiến trường, nghĩa là ông sẽ chết cùng
với anh em binh sĩ.
Trước khi rời Dinh Độc
Lập, cựu Trung tướng Đôn nói với Tổng thống Hương: “Cụ
nghiên cứu lại, vì bên kia họ chỉ muốn nói
chuyện với ông Minh mà thôi”. 8 giờ tối hôm
đó, cựu Trung tướng Đôn trở lại nhà ông Dương
Văn Minh và thấy một số nhân vật ở đây: ông
Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng nghị viện, giáo sư Vũ Văn
Mẫu và ông Brochand, cố vấn chính trị sứ
quán Pháp. Cựu Tướng Đôn giải thích với
ông Dương Văn Minh: “Ông Hương vừa mới lên mà
yêu cầu ông từ chức thì cũng khó xử cho
ông ấy, hơn nữa còn Hiến pháp, còn Quốc
hội.” Ý kiến của cựu Trung tướng Đôn chỉ có
ông Huyền đồng ý, còn ông Minh và
ông Mẫu thì cho rằng ông Hương trì
hoãn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận.
* TT Nguyễn Văn
Thiệu gặp cựu Trung tướng Trần Văn Đôn lần cuối cùng
8 giờ sáng ngày 25 tháng 4/1975, cựu Tổng Thống
Thiệu điện thoại cho cựu Trung tướng Đôn ngỏ ý muốn gặp
ông tại Dinh Độc Lập (sau khi từ chức, cựu TT Nguyễn Văn Thiệu
vẫn còn ở trong dinh này) để nhờ lấy giúp cho bạn
của ông một giấy chiếu khán đi ngoại quốc. Khi cựu Trung
tướng Đôn vào dinh Độc Lập, cựu Tổng Thống Thiệu cho biết
là ông đã hiểu rõ diễn biến. Câu
chuyện nửa chừng thì cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho Tổng
thống Hương và nói: “Nếu ông Dương Văn Minh
không chịu làm Thủ tướng toàn quyền thì cụ
tìm một người khác có thể thương thuyết với
bên kia và người đó theo tôi là
ông Đôn”.
Để điện thoại xuống, cựu
Tổng Thống Thiệu nói với ông Đôn: “Theo tôi,
ngoài ông Minh ra, ông là người có thể
nhận trách nhiệm này. Tôi đã nghĩ đến
ông từ năm 1973. Tôi đã biết ông từng tiếp
xúc nhiều giới chức…Ông có uy tín trong giới
chính trị và quân đội. Nhưng tôi không
thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên
không thể ngồi chung với Cộng sản. Nếu chịu thương thuyết
tôi đã mời ông làm Thủ tướng từ năm 1973 rồi.
Nhưng ngày nay thì tôi đề nghị với ông Hương
mời ông làm việc”.
Cựu Trung tướng Đôn
hỏi lại cựu TT Thiệu: “Ông có nghĩ là bây giờ
đã trễ không?” Ông Thiệu im lặng không
đáp. Trước khi từ giã, cựu Trung tướng Đôn
nhìn thẳng cựu TT Thiệu, rồi nói: “Còn phần
ông, chừng nào ông đi? Tôi biết Mỹ không
muốn chuyện xảy ra như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ
ông nhất là khi nghe có tân thủ tướng
và chính phủ mới. Ông phải đi cho nhanh. Nếu
tôi làm Thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ
đòi bắt ông và tôi làm theo.”
Từ biệt cựu TT Thiệu, cựu Trung tướng Đôn ghé nhiều nơi để
trao đổi ý kiến với một số yếu nhân và sau
đó trở về nhà. Đến nhà, cựu Trung tướng Đôn
được biết cựu Tổng Thống Thiệu điện thoại cho ông mấy lần
và có để lại số điện thoại. Cựu tướng Đôn gọi lại
thì cựu Tổng thống Thiệu nói lời từ giả với cựu Tướng
Đôn: “Chúc anh thành công và
cám ơn anh.” Cựu Tướng Đôn nhắc lại những gì
đã nói khi gặp cựu Tổng thống Thiệu và nói:
“Ông đừng quên những gì tôi đã
nói hồi sáng, nghĩa là ông phải ra đi.” Sau
đó, cựu Tướng Đôn được báo là người Mỹ
đã giúp cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm và cả gia đình hai vị
này rời khỏi Việt Nam bằng máy bay đặc biệt đến
Đài Bắc, Thủ đô Đài Loan.
Ngày
28/4/1975:
Tướng
Minh
Nhận
Chức Tổng Thống VNCH
Vương Hồng Anh
* Tổng thống Trần
Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương Văn Minh
Trong khi Cộng quân áp lực nặng quanh vòng đai Thủ
đô Sài Gòn, thì một sự kiện trọng đại
đã xảy ra trong ngày 28/4/1975: Tổng thống Trần Văn Hương
từ chức, trao quyền nguyên thủ quốc gia cho ông Dương Văn
Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều
ngày 28 tháng 4/1975. Trong buổi lễ này,
Quân lực VNCH cử Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không
quân và Trung tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng
Liên quân thay mặt Đại tướng Cao Văn Viên đến dự lễ.
Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn Minh đọc
diễn văn nhận chức, Tổng thống Trần Văn Hương đã công bố
sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên khỏi chức vụ Tổng tham
mưu trưởng (theo nguyện vọng của Đại tướng Viên). Sau nghi lễ
nhận chức, ông Dương Văn Minh đã giới thiệu ông
Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng thống và ông
Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
* Tướng Trần Văn
Đôn kể lại những biến cố, sự kiện trong ngày 28/4/1975
Theo lời kể của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong Việt
Nam Nhân Chứng, trong buổi lễ bàn giao, ông Dương
Văn Minh đã “trầm tĩnh đọc bản tuyên bố đường lối của
mình là “sẽ chấm dứt chiến tranh bằng cách thương
thuyết và hòa giải với Mặt trận Giải phóng miền
Nam”.
Vào 6 giờ chiều,
cuộc lễ xong, ông Minh tiễn cụ Trần Văn Hương ra cổng. Nhà
của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ở gần dinh Độc Lập nên chỉ
vài phút sau ông đã về đến nhà, lại
nghe “tiếng nổ ầm ầm, súng bắn lung tung, phi cơ bay. Trên
dinh Độc Lập. Nưả giờ sau, tiếng súng ngưng nổ, tiếng động cơ
máy bay nhỏ dần rồi im lặng. Tướng Đôn điện thoại cho Bộ
Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Không quân thì
được báo cáo có 3 phi cơ của Không
quân VNCH bị bỏ lại ở Đà Nẵng và Việt Cộng
đã sử dụng để bay vào Sài Gòn dội bom. Hai
phản lực cơ F-5 của Không quân đã bay lên
nghinh chiến đuổi 3 phi cơ này. (Tài liệu của Đại tướng
Cao Văn Viên cho biết 3 phi cơ tham gia cuộc dội bom là
phản lực cơ A-37 ).
Cũng theo lời kể của cựu
Trung tướng Trần Văn Đôn, trước lễ bàn giao chức vụ Tổng
thống VNCH diễn ra vào buổi chiều 28/4/1975, thì
vào 8 giờ sáng ngày 28 tháng 4, cựu Trung
tướng Đôn đã đến văn phòng Tổng tham mưu trưởng như
thường lệ gặp Đại tướng Cao Văn Viên để theo dõi
tình hình quân sự. (Theo tài liệu ghi trong
Quân sử VNCH, vào năm 1955, ông Trần Văn Đôn
là Thiếu tướng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu , ông Cao
Văn Viên là Thiếu tá, giữ chức vụ Trưởng
phòng 4 Bộ Tổng Tham mưu).
Trong cuộc gặp nói
trên, Tướng Viên nhắc với Tướng Đôn rằng Tổng thống
Trần Văn Hương đã ký sắc lệnh cho ông nghỉ, do
đó, ông yêu cầu Tướng Đôn với chức danh
là Tổng trưởng Quốc phòng, cử người thay thế. Ngay
lúc đó, có điện thoại của ông Dương Văn Minh
gọi cho Tướng Đôn, dặn ông cố gắng giữ Tướng Viên ở
lại chức vụ Tổng Tham mưu trưởng, đừng cho Tướng Viên đi.
Trước sự việc như thế,
Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn không biết xử sự
làm sao vì Tướng Viên đã được Tổng thống
Trần Văn Hương cho nghỉ (sắc lệnh này được Tổng thống Trần Văn
Hương công bố vào chiều ngày 28/4/1975). Tướng
Đôn hỏi Tướng Viên:
-Nếu anh đi, thì theo anh ai sẽ thay thế được ?
Tướng Viên không trả lời thẳng mà hỏi lại Tướng
Đôn:
-Anh sẽ làm gì ?
Tướng Đôn trả lời:
-Tôi cũng chưa quyết định. Mấy ngày trước, ông Minh
và ông Mẫu muốn tôi tiếp tục giữ ghế Tổng trưởng
Quốc phòng nhưng tôi chưa trả lời, nay ông Minh cho
tôi biết Hà Nội không muốn có người
nào trong nội các cũ ở lại trong nội các mới.”
Về lại văn phòng,
Tướng Đôn nhận được điện thoại của ông Dương Văn Minh hủy
bỏ sắc lệnh mà Tổng thống Trần Văn Hương đã ký cho
phép Tướng Viên nghỉ dài hạn không lương,
nhưng sắc lệnh đó Tổng thống Trần Văn Hương đã ký
trước khi bàn giao chức vụ Tổng thống.
* Chức vụ Tổng
tham mưu trưởng Quân lực VNCH vào những ngày cuối
tháng 4
Về chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, như đã
trình bày, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức
vào tối 21 tháng 4/1975, và sau cuộc rút
quân khỏi Xuân Lộc, Đại tướng Cao Văn Viên
không còn thiết tha với chức vụ Tổng tham mưu trưởng
Quân lực VNCH, trong khi đó, tân Tổng Thống Trần Văn
Hương lại muốn bổ nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên làm Tổng tư
lệnh Quân đội với đầy đủ quyền hạn, so với chức vụ Tổng Tham mưu
trưởng mà Đại tướng Viên đã nắm giữ từ tháng
10/1965. Thế nhưng, Đại tướng Cao Văn Viên đã trình
xin Tổng Thống Trần Văn Hương cho ông được giải nhiệm. Tổng thống
Trần Văn Hương không đồng ý và yêu cầu Đại
tướng Viên tiếp tục giữ chức vụ. Chỉ đến khi Tổng Thống Trần
Hương trao quyền cho ông Dương Văn Minh thì Đại tướng
Viên mới nhận được quyết định giải nhiệm. Kể lại chuyện
này, Đại tướng Cao Văn Viên ghi trong hồi ký như
sau: “Trước khi Tổng Thống Hương bước xuống, Tổng Thống đưa ra một sắc
lệnh giải nhiệm tôi khỏi chức vụ Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng
Tham Mưu. Đến khi tân Tổng Thống (cựu Đại tướng Dương Văn Minh)
muốn chọn người thay thế tôi, tôi đề nghị Tướng Đồng Văn
Khuyên, lúc ấy đang giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham
mưu kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận”.
* Tình
hình chiến sự trong ngày ông Dương Văn Minh nhận
chức Tổng Thống
Tình hình chiến sự trong ngày 28/4/1975 ghi nhận
nhiều diễn biến dồn dập. Cộng quân đã tung thêm lực
lượng áp sát vòng đai SàiGòn.Tại
Bình Dương, sau khi đã đưa một sư đoàn vào
khu Đông Nam và tấn công vào các khu
vực Phú Giáo, Tân Uyên, Cổ Mi, Cộng
quân đã điều động 2 sư đoàn thuộc Quân
đoàn 1 CSBV tiến sát đến các tuyến phòng
tuyến do các trung đoàn 7, 8, 9 của Sư đoàn 5 Bộ
binh. Trong các trận đánh tại BìnhDương vào
10 ngày cuối của tháng 4/1975, nổi bật nhất là
trận Bến Sắn giữa sư đoàn 5 Bộ binh và 1 sư đoàn
chủ lực Quân đoàn 1 của Cộng quân. Cộng quân
muốn chiếm Bến Sắn để từ đó chọc thủng mặt đông của tỉnh
Bình Dương và mặt tây của tỉnh Biên
Hòa nhưng đã bị sự kháng cự mãnh liệt của
Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng quân bị tổn thất nặng.
Cũng trong ngày 28/4/1975, Căn cứ Không quân
Biên Hòa bị pháo kích dữ dội. Theo
tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, tất cả các phi
cơ tại căn cứ này đều đã được dời qua phi trường
Tân Sơn Nhất hay xuống phi trường Trà Nóc ở miền
Tây. Sư đoàn 3 Không quân bắt đầu phá
hủy những phương tiện còn lại trong căn cứ Biên
Hòa.
29/4/1975:
Tân
Chính
Phủ
VNCH
Đòi Mỹ Rút Khỏi Việt Nam
Vương Hồng Anh
* Tân Thủ
tướng Vũ Văn Mẫu nhận chức, yêu cầu Mỹ rút khỏi VN
11 giờ 30 phút ngày 29/4/1975, ông Vũ Văn Mẫu
chính thức nhận chức Thủ tướng. Do ông Nguyễn Bá
Cẩn, Thủ tướng do Tổng thống Thiệu bổ nhiệm đã rời Việt Nam,
nên Phó Thủ tướng Đôn thay mặt nội các cũ
ký biên bản bàn giao với tân thủ tướng Vũ Văn
Mẫu. Diễn tiến lễ bàn giao này được cựu Trung tướng Trần
Văn Đôn ghi lại như sau:
10 giờ sáng
ngày 29 tháng/4, cựu Tướng Trần Văn Đôn đến Phủ Thủ
Tướng, đi đường Thống Nhất. Khi đi ngang Tòa Đại sứ Mỹ,
ông thấy nhiều người vô ra tấp nập như thường ngày.
Nguyên Phó thủ tướng Trần Văn Đôn đến Phủ Thú
Tướng cùng với sĩ quan tuỳ viên , nơi đây một số
Tổng trưởng nội các mới đã có mặt. Nội các
cũ thì có Phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo, Dương
Kích Nhưỡng…. . . Một lúc sau, ông Châu, Bộ
trưởng Phủ Thủ tướng cho biết ông Mẫu muốn điện đàm với
Tướng Đôn. Ông Mẫu xin lỗi đến trễ một giờ vì phải
qua đài phát thanh đọc lời tuyên bố quan trọng. 11
giờ 30 ông Châu cho biết ông Thủ tướng đến, Tướng
Đôn ra cầu thang đón. Ông Mẫu đến đúng nghi
lễ, đi bằng xe Mercedes dành cho Thủ tướng, có xe
máy dầu hộ tống”.
Tướng Đôn mời
ông Mẫu vào văn phòng Thủ tướng và bắt đầu
cuộc lễ. Ông Mẫu ngồi bên tay mặt Tướng Đôn.
Ông Châu đưa biên bản bàn giao để ký.
Tướng Đôn ký xong trao cho ông Mẫu ký, nhưng
ông Mẫu ký hoài mà viết của ông ấy vẫn
không ra mực nên Tướng Đôn phải đưa viết của
ông cho ông Mẫu ký. Ai cũng im lặng chờ đợi.
Ký biên bản bàn giao xong, Tướng Đôn
nói vài lời cầu chúc và ông Mẫu
đáp từ. Sau đó, ông Mẫu nói chuyện với
các Tổng trưởng:
-Tôi vưà lên Đài phát thanh
tuyên bố, yêu cầu Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam trong
vòng 24 tiếng đồng hồ kể từ 5 giờ sáng nay( 29-4-1975)
Nghe ông Mẫu
nói, Tướng Đôn dùng điện thoại màu xanh
lá cây dành riêng cho Thủ tướng và
Phó Thủ tướng để liên lạc với Tòa Đại sứ Mỹ.
Có tiếng người bắt điện thoại, Tướng Đôn hỏi ngay: Chuyện
gì đã xảy ra? Tôi vưà nghe ông Thủ
tướng yêu cầu DAO (Cơ quan tùy viên Quân sự
tại Đại sứ quán Mỹ) trong vòng 24 tiếng đồng hồ.
Phiá Đại sứ
quán Mỹ trả lời:Không phải chỉ có DAO mà tất
cả những người Mỹ sẽ rút. Nếu ông muốn đi thì
lên Tòa Đại sứ Mỹ trước 2 giờ trưa này (ngày
29-4-1975)
*Tổng thống Dương
Văn Minh cho Hải quân toàn quyền hoạt động
Theo ghi nhận của cựu Tướng Trần Văn Đôn ghi lại trong hồi
ký, vào sáng ngày 29/4/1975, Phó
Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư lệnh Hải quân đến gặp Tổng thống
Dương Văn Minh cho biết hiện tình tàu bè đủ để chở
Chính phủ và binh sĩ xuống miền Tây, nhưng
ông Minh cho biết đang lo thương thuyết. 5 giờ chiều cùng
ngày, Tổng thống Dương Văn Minh gọi phó Đô Đốc
Chung Tấn Cang đến gặp. Phó Đô Đốc Cang cử Phó Đề
Đốc Diệp Quang Thủy đi thay. Tổng thống Dương Văn Minh nói với
Phó Đề Đốc Thủy: “Tôi trao cho Hải quân được
toàn quyền hoạt động.”
*Tình
hình chiến sự trong ngày 29/4/1975
Rạng sáng ngày 29 tháng 4/1975, Bộ Tổng Tham mưu,
Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Hải
quân tại bến Bạch Đằng đã trở thành mục tiêu
của pháo binh Cộng quân. Những đợt pháo kích
liên tiếp của Cộng quân đã rót vào
các vị trí trên. Ngay tại Bộ Tổng tham mưu
và bộ Tư lệnh Hải quân chỉ bị thiệt hại nhẹ, nhưng căn cứ
Tân Sơn Nhất bị thiệt hại nặng nhất. Các bãi phi cơ
đậu, các ụ xăng dầu và các trạm truyền tin đều bị
đạn pháo bắn trúng. Lửa cháy, đạn nổ khắp nơi.
Cộng quân bắt đầu
tấn công bằng Bộ binh và Thiết giáp vào
Sài Gòn bằng hai mũi: Phú Lâm và cầu
Nhị Thiên Đường. Sau một đợt giao tranh, Cộng quân chiếm
cầu Nhị Thiên Đường. Tại Phú Lâm, khu phát
tuyến tại đây bị pháo kích nặng và bị tấn
công. 9 giờ 30 ngày 29/4/1975, căn cứ Không
quân bị pháo kích nặng. Nhiều phi cơ trong
bãi đậu, kể cả những chiếc A 37 và đặc biệt có 4
chiếc C 130 có gắn bom sẵn, bị trúng đạn pháo
kích và nổ tung. Lửa cháy cùng khắp, lan đi
rất nhanh. Căn cứ Tân Sơn Nhất hoàn toàn bất khiển
dụng và hỗn độn. Khoảng hơn 3 ngàn người đang chờ sau
lưng cơ quan DAO (Phòng Tùy viên Quân sự Sứ
quán Hoa Kỳ) từ ngày 28 tháng 4/1975 để chờ phi cơ
đến đón đi, kinh hoảng bỏ chạy ra khỏi căn cứ. Đến 10 giờ
thì hầu như bộ Tư lệnh Không quân không
còn kiểm soát được quân sĩ thuộc quyền nữa.
Trên trời, từng đoàn trực thăng của Mỹ vần vũ và
bay lơ lửng trên các nóc cao ốc và trong cơ
quan DAO để đón nhân viên Hoa Kỳ. Lúc bấy
giờ, khó phân biệt được trực thăng của Không
quân Mỹ hay của Không quân VNCH.
Quanh vòng đai
Sài Gòn, chiến trận khốc liệt đã diễn ra tại Long
An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Biên Hòa. Tại Long An,
các đơn vị Sư đoàn 22 Bộ binh đã giao chiến quyết
liệt với hai trung đoàn Cộng quân muốn chọc thủng
phòng tuyến thị xã Tân An. Sư đoàn 22 Bộ
binh từ Quân khu 2 rút vào và được phối
trí hoạt động tại khu vực này.
Tại mặt trận Củ chi, Hậu
Nghĩa, 7 giờ sáng ngày 29/4/1975, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Hậu
Nghĩa bị mất liên lạc với Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3
& Quân khu 3. 10 giờ sáng cùng ngày,
Quân đoàn 3/Quân khu 3 báo cáo về Bộ
Tổng tham mưu là Tiểu khu Hậu Nghĩa thất thủ. Tại phòng
tuyến Củ Chi của Sư đoàn 25 Bộ binh, Cộng quân tung 1 sư
đoàn chính quy CSBV có 1 trung đoàn chiến
xa yểm trợ tấn công ồ ạt vào các vị trí của
quân trú phòng. Từ hầm chỉ huy, Chuẩn tướng
Lý Tòng Bá trực tiếp điều động các tuyến
chống trả các đợt xung phong biển người của địch quân
và xin trực thăng chiến đấu yểm trợ. Quốc lộ 1 nối Sài
Gòn với Củ Chi bị đắp mô, giao thông tắc nghẽn.
Đêm 29/4/1975, bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh phải bỏ
phòng tuyến Củ Chi rút về Hóc Môn.
Tại tuyến phòng
thủ Trảng Bom do một đơn vị thuộc Sư đoàn 18 phụ trách,
vào 7 giờ 30 sáng, nhiều vị trí bị Cộng quân
chọc thủng và đến 10 giờ phòng tuyến này
hoàn toàn bị Cộng quân tràn ngập. Một số đơn
vị của Sư đoàn 18 rút về phía nam căn cứ Long
Bình, Lữ đoàn 257 Thủy quân Lục chiến án ngữ
mặt bắc Long Bình cũng bị tấn công. 11 giờ sáng
ngày 29/4/1975, Cộng quân tấn công vào
phòng tuyến nam Long Bình, Sư đoàn 18 Bộ binh
đã đẩy lùi được nhiều đợt xung phong của các trung
đoàn Cộng quân. Trong khi đó căn cứ Long
Bình đã bị pháo kích liên tục. Tại
căn cứ kho đạn Thành Tuy Hạ, nhiều vựa chứa đạn trong kho
đã bị pháo kích và vòng đai
phòng thủ kho đạn đã bị khoảng 2 tiểu đoàn Cộng
quân bao vây.
Tại Bình Dương,
căn cứ Lai Khê bị pháo kích dữ dội suốt đêm
28 và rạng ngày 29/4/1975. Quận lỵ Bến Cát bị một
trung đoàn Cộng quân tấn công. Quốc lộ 13 bị cắt đứt
tại đoạn giữa Phú Cường, tỉnh lỵ Bình Dương, và
Lai Khê. Ngay trong sáng ngày 29 tháng
3/1975, nhiều biệt đội đặc công của Cộng quân đã lọt
được vào Phú Cường và đóng chốt nhiều nơi
trong thị xã.
Tại Biên
Hòa, quận lỵ Tân Uyên bị tấn công ác
liệt. Lực lượng Địa phương quân và Cảnh sát chiến
đấu phòng thủ quân lỵ đã phải bỏ phòng
tuyến, thị xã bỏ ngỏ. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 &
Quân khu 3, căn cứ Không quân Biên Hòa,
và một số doanh trại quân đội gần Biên Hòa,
dọc xa lộ Biên Hòa-Sài Gòn cũng bị
pháo kích.
Tại phía Tây
Nam Sài Gòn, hai liên đoàn Biệt động
quân bị tấn công vào giữa 0 giờ 30 giờ sáng
ngày 29/4/1975 và bị tổn thất 50% quân số. Rạng
sáng cùng ngày, quận lỵ Hóc Môn cũng
bị tấn công, đơn vị Địa phương quân và Nghĩa
quân bị thiệt hại nặng. Trung tâm Huấn luyện Quang Trung
cũng bị tấn công và pháo kích từ 1 giờ
sáng. Tại khu vực tiếp vận Hạnh Thông Tây bị Cộng
quân tấn công.
Tại Vũng Tàu, ngay
từ đêm 28/4/1975, Bộ Chỉ huy hành quân của Thiếu
tướng Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh kiêm Tư lệnh mặt
trận Vũng Tàu, đã phải làm việc tại duyên
đoàn 33 Hải quân để điều động các cánh
quân. 4 giờ sáng ngày 29/4/1975, Đại tá Lợi
và Trung tá Nhã đến gặp Tướng Hinh trên một
chiếc tàu nhỏ của Duyên đoàn 33 và cho biết
tình hình tại Bộ Tổng Tham mưu. Theo hai vị sĩ quan
này thì Đại tướng Viên và Chuẩn tướng Thọ,
Trưởng phong 3 BTTM, đã ra đi từ chiều ngày 28/4/1975.
Gần sáng, lại có thêm Chuẩn tướng Huỳnh Bá
Tính, Tư lệnh Sư đoàn 3 Không quân và
và đại tá cùng khoảng 60 sĩ quan, binh sĩ
Không quân từ Biên Hòa về Vũng Tàu.
Tướng Tính đã đến gặp Tướng Hinh tại Duyên
đoàn 33. Chuẩn tướng Tính cho biết ngay trong chiều
28/4/1975, phi trường Biên Hòa đã được lệnh
phá hủy các cơ sở. Lệnh này do Chuẩn tướng
Bê, chỉ huy Tiếp vận Không quân trực tiếp ban
hành mà không thông qua tư lệnh Sư
đoàn 3 Không quân. Sáng ngày
29/4/1975, có thêm rất nhiều sĩ quan từ Sài
Gòn ra Vũng Tàu.
30/4/1975: LỰC LƯỢNG VNCH TỬ CHIẾN TẠI THỦ ĐÔ SÀI
GÒN
Tử
Thủ
Sau
Lệnh
Đầu
Hàng: Giết 1,000 VC, Diệt 32 Xe Tăng CS
Vương Hồng Anh
* Hơn 1
ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa CSBV bị bắn
cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975 tại
phòng tuyến Sài Gòn
Vào những
ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi những
người lãnh đạo tối cao của quốc gia và quân đội
tìm mọi cách để ra đi, thì tại mặt trận
vòng đai Sài Gòn và ngay trong Thủ đô
của Việt Nam Cộng Hòa, người lính Quân lực VNCH từ
anh binh nhì cho đến các trung đoàn trưởng, lữ
đoàn trưởng… thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ
vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến phút cuối
cùng.
Từ 0 giờ sáng đến
10 giờ ngày 30/4/1975, trên các cửa ngõ
vào thủ đô Sài Gòn, những người lính
Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt động
quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục chiến… đã
đánh trận cuối cùng trong đời lính của họ: 32
chiến xa và gần 30 quân xa Cộng quân bị bắn
cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác… Đó
là chiến tích của người lính VNCH tại mặt trận Thủ
Đô Sài Gòn trong buổi sáng cuối cùng
của cuộc chiến, trước khi ông Dương Văn Minh ra lệnh Quân
lực VNCH buông súng vào lúc 10 giờ 15
phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối
cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của
Việt Nam Cộng Hòa, có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập,
những trận đánh hào hùng và bi tráng
của một số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù…
trước giờ G.
* Bộ Tổng Tham
Mưu QL/VNCH, những giờ cuối cùng:
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có
thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân lực VNCH đã ra đi. Đại
tướng Viên rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với Chuẩn
tướng Thọ (trưởng phòng 3); Trung tướng Đồng Văn Khuyên,
Tham mưu trưởng Liên quân Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng
cục trưởng Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày
29/4/1975. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệtkhu Thủ đô
cũng đã “chia tay” với các cộng sự viên của
mình từ sáng ngày 29/4/1975. Để có tướng
lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng thống Dương Văn Minh
đã cử một số tướng lãnh và cựu tướng lãnh
giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ chức Tổng
Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ
tháng4/1974, làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu
Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử làm Tư lệnh Biệt
khu Thủ Đô; chuẩn tướng Lê Văn Thân, nguyên Tư
lệnh phó Quân khu 2,làm Tư lệnh phó phụ
giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức,
nguyên Cục trưởng Công binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội
các Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng Tiếp vận.
Sau khi nhận chức Tổng
tham mưu trưởng, chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã triệu
tập một cuộc họp với các tướng lãnh và sĩ quan cao
cấp đang còn ở lại Sài Gòn tại phòng họp bộ
Tổng Tham Mưu và yêu cầu “mọi người đừng bỏ đi, hãy
ở lại để làm việc vớitất cả trách nhiệm”.
* Trận chiến tại
các cửa ngõ vào Sài Gòn:
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn bộ quân
trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh
mở đường máu về Hóc Môn. Riêng Chuẩn tướng
Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn và một
Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc đã phải thay nhau làm
khinh binh với chiến thuật cá nhân để thoát khỏi
vòng vây của Cộng quân. Cuối cùng vị tư lệnh
Sư đoàn 25 Bộ binh bị lọt vào tay địch khi ông
và người cận về gần đến Hóc Môn.
Tại mặt Nam của
Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975, bộ Tư lệnh Biệt
khu Thủ đô không còn quân trừ bị để giải tỏa
áp lực của Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động
quân đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía
nam Bến Tranh đã được điều động về quận lỵ Cần Đước theo
liên tỉnh lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới quyền
điều động của bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối
liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên
các lực lượng VNCH không thể phá vỡ được các
chốt chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên Đường (khu vực
này bị Cộng quân chiếm từ rạng sáng ngày
29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi thì kho đạn
Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích nặng nề nên
phát nổ nhiều nơi. Hệ thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ
huy Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng Cộng
quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào
cầu tàu chất đạn chưa được bốc dỡ.
Tại cụm phòng
tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần trung tâm huấn
luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình
Thới-Ngã ba Bà Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị Nhảy
Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực ngăn chận
Cộng quân. Những người lính Dù không hề nao
núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ
Tổng Tham Mưu, một chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81
Biệt Cách Dù do thiếu tá Phạm Châu
Tài chỉ huy đã dàn quân chận địch, từ 8 giờ
sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này
đã bắn cháy 6 chiến xa Cộng quân và nỗ lực
đánh bật địch ra khỏi trận địa.
* Những trận
đánh trước giờ G…
Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt
trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa,
các đơn vị của Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ
đoàn 3 Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân
Lục chiến, Biệt động quân… đều đặt trong tình trạng sẵn
sàng ứng chiến để chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư
lệnh Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát từ
sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát
tình hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông gọi
máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần, sĩ quan cao cấp nhất của
Không quân vào lúc đó. Tướng
Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi tuần khu trục
liên tục oanh kích Cộng quân đang chuyển quân
dọc theo con đường từ ngả tư Bảy Hiền lên đến Hóc
Môn.
Trong khi các đơn
vị VNCH đang nỗ lực đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham
mưu, thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống
Dương Văn Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
ngưng chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn
Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để
đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu. Khi nhận
được lệnh ngưng bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến
đoàn trưởng Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep
vào Bộ Tổng Tham Mưu, ông được anh em binh sĩ gác
cổng cho biết là Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu
trưởng, đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng
lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu
tá Tài về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh
bộ Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn
ai.
Trước tình
hình đó, Thiếu tá Tài đã bốc điện
thoại quay số gọi về văn phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh hỏi Thiếu tá
Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng đã trả lời:
“Tôi là chiến đoàn trưởng Biệt cách Nhảy
Dù đang trách nhiệm bảo vệ bộ Tổng tham mưu, tôi
xin được gặp Tổng thống”. Vài giây sau, thiếu tá
Tài nghe tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu
máy: “Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây, có chuyện
gì đó?” Thiếu tá Tài trình
bày: “Tôi đang chỉ huy cánh quân tử chiến với
Cộng quân ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng bắn,
nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã
liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có ai,
nên muốn nói chuyện với Tổng thống là Tổng Tư lệnh
Tối cao của Quân đội để xin quyết định.” Tướng Minh trả lời:
“Các em chuẩn bị bàn giao đi!”. Thiếu tá
Tài ngạc nhiên hỏi lại: “Bàn giao là như thế
nào thưa Đại tướng, có phải là đầu hàng
không?”, Tướng Minh đáp: Đúng vậy, ngay bây
giờ xe tăng Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng
Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay: “Nếu
xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc Lập, chúng tôi
sẽ đến cứu Tổng thống”. Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài
nói tiếp: “Tổng thống phải chịu trách nhiệm trước 2
ngàn cảm tử quân đang tử chiến với Cộng quân ở bộ
Tổng tham mưu.” Tướng Minh trả lời: “Tùy các anh em”.
Theo lời Thiếu tá
Tài, sau này, khi bị CQ giam trong trại tù,
ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan, Liên
đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng thống
Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài:
“Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh, moa nghe toa
nói vào cứu Tổng thống”. Thiếu tá Tài giải
thích: “Tổng thống là vị lãnh đạo tối cao của
Quân lực, phải cứu ông ra để có người chỉ huy
Quân đội”.
Tài
Liệu
Đặc
Biệt:
Mật
Trình Của Tướng Weyand & Tài Liệu
Tướng Nguyễn Văn Hiếu
Vương Hồng Anh
* Từ chuyến viếng thăm VN của
Đại tướng Weyand, đến cái chết bí ẩn của Thiếu tướng
Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó hành quân Quân
đoàn 3, ngày 8-4-1975.
Như đã trình bày, vào tuần lễ cuối
cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại
tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến
Việt Nam để tìm hiểu tình hình. Đại tướng Weyand
là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam
qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ,
Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh
phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh
là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ
huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).
Đại tướng Weyan đã thăm và tìm hiểu tình
hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở
về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc
biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và
những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH.
Bốn ngày sau khi Đại tướng Weyand rời VN, vào ngày
8 tháng 4/1975, trong khi Cộng quân khai triển lực lượng
để mở cuộc tấn công vào Long Khánh, thì tại
Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 ở Biên Hòa, Thiếu
tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư lệnh phó Quân đoàn 3,
đã chết một cách bí ẩn ngay tại văn phòng.
Những người gần văn phòng của Tướng Hiếu nghe 1 tiếng
súng nổ, 1 đại tá chạy qua thì thấy Tướng Hiếu nằm
bất động trên chiếc ghế bành bàn giấy. Một
giòng máu tươi chảy chan hoà xuống mặt và
ngực. Một viên đạn đã xuyên qua trán đi thẳng
lên óc. Viên đạn này còn trớn bay
lên trần nhà, soi thủng một lỗ.
*Tập tài liệu đặc biệt “Thiếu tướng Nguyễn Văn
Hiếu”, và những bí mật về những phúc trình
của Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, và của Đặc sứ
Tổng thống Mỹ.
30 năm sau ngày VNCH bị bức tử, những bí ẩn về cái
chết của Tướng Nguyễn Văn Hiếu, từng là Phụ tá Phó
Tổng tổng thống VNCH Trần Văn Hương đặc trách bài trừ
tham nhũng, cùng những tài liệu mật về những phúc
trình của Đại sứ Bunker, của các tướng lãnh Mỹ,
đã được công bố qua tập tài liệu: “Thiếu tướng
Nguyễn Văn Hiếu, Một viên ngọc quân sự ẩn tàng”,
dày 546 trang, khổ giấy lớn, do ông Nguyễn Văn Tín,
em ruột của Tướng Hiếu, sưu tầm và biên soạn với tất cả
tấm lòng của một người em đối với người anh được đồng đội vinh
danh là “dũng tướng”. Tập tài liệu vừa được phát
hành vào cuối tháng 4/1975. Theo ghi nhận của một
số cựu sĩ quan cao cấp và cựu viên chức Chính phủ
VNCH, đây là tập tài liệu có giá trị
về phương diện lịch sử và chiến sử với những bài viết,
tài liệu về các cuộc hành quân lớn
trên chiến trường VN, về sự tham chiến của Hoa Kỳ tại VN, về thực
trạng chính trị xã hội VN, thông qua đời binh
nghiệp của Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu từ khi theo học khóa 3 sĩ
quan hiện dịch trường Võ bị Liên quân Đà Lạt
năm 1950 cho đến tháng 4/1975 qua các chức vụ: sĩ quan
phòng 3 Bộ Tổng tham mưu, Trưởng phòng Quân
đoàn 1, Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh, Tham mưu
trưởng Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Tư lệnh Sư
đoàn 22, Tư lệnh 5 Bộ binh, Tư lệnh phó Quân
đoàn 1, Phụ tá Phó Tổng thống đặc trách
bài trừ tham nhũng, và chức vụ cuối cùng là
Tư lệnh phó đặc trách hành quân của
Quân đoàn 3. (Bạn đọc muốn mua tập tài liệu
này, xin liên lạc với Tin Nguyen, 1144 Simpson Street,
Bronx, NY 10459, điện thư: tinvnguyen@generalhieu.com)
*Báo cáo lượng định tình hình VNCH của Đại
tướng Weyand đệ trình lên Tổng thống Ford
Trở lại chuyến thị sát tình hình VN của Tướng
Weyand, sau khi trở về Mỹ, vị đại tướng này đã làm
phúc tình lên Tổng thống Ford. Phúc
trình này đã được dịch và phổ biến trong
tập tài liệu ” Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu” (trang 315-328). Sau
đây là những điểm chính của bản phúc
trình mà Đại tướng Weyand đệ trình lên Tổng
thống.
-Phần mở đầu, Đại tướng Weyand viết như sau:
“Vâng theo chỉ thị của Tổng Thống, tôi đã viếng thăm
Nam Việt Nam trong thời gian từ 28/3 đến 4/4. Tôi đã
hoàn tất công việc lượng định tình hình hiện
tại đó, đã phân tách Chính Phủ Cộng
Hòa Việt Nam có những dự tính nào để phản
công sự gây hấn từ phía Bắc Việt, đã cam kết
với Tổng Thống Thiệu sự hỗ trợ kiên trì của Tổng Thống
trong thời gian khủng hoảng này, và đã kiểm điểm
các lựa chọn và các đường lối hành động
mà Hoa Kỳ có thể thi hành để trợ giúp Nam
Việt Nam.”
“Tình hình quân sự hiện tại đang lâm
vào tình trạng gây cấn, và sự tồn tại của
Nam Việt Nam trong tư thế một quốc gia đứt đoạn tại các tỉnh
phía nam thật là mong manh. Chính Phủ Nam VN đang
bên bờ vực thẳm của một sự thất bại quân sự hoàn
toàn. Tuy nhiên, Nam Việt Nam dự tính tiếp tục
chống cự với phương tiện có trong tay, và, nếu được
phép dưỡng thở, có thể tái tạo khả năng chiến đấu
tùy thuộc vào sự yểm trợ chiến cụ về phía Hoa Kỳ
cho phép. Tôi xác tín là chúng
ta có bổn phận phải hiến sự hỗ trợ này cho họ.”
“Chúng ta đã tới Việt Nam, trước tiên là để
hỗ trợ nhân dân Nam Việt Nam,-chứ không phải để
đánh bại Bắc Việt. Chúng ta đã chìa
bàn tay ra cho nhân dân Nam Việt Nam, và họ
đã nắm lấy bàn tay ấy. Giờ đây họ cần tới
bàn tay đó hơn bao giờ hết. Bằng mọi giá
chúng ta đã trợ giúp cho 20 triệu người. Họ
đã nói với cả thế giới là họ lo sợ cho tính
mạng của họ. Họ là những người ưa chuộng các giá
trị trùng hợp với các giá trị của các hệ
thống không cộng sản, họ tha thiết đeo đuổi cơ hội tiếp tục
phát triển một lối sống khác lối sống của những người
hiện sống dưới ách Bắc Việt.”
-Về phần viện
trợ, Đại tướng Weyand ghi nhận
“Mức độ yểm trợ hiện tại của Hoa Kỳ bảo
đảm cho sự thất bại của Chính Phủ Nam VN. Trong số 700 triệu mỹ
kim cho tài khóa 1975, số còn lại 150 triệu mỹ kim
có thể xử dụng trong một thời gian ngắn cho một cuộc tiếp tế qui
mô; tuy nhiên, nếu muốn đạt được một cơ may thành
công thật sự, cần có lập tức thêm 722 triệu mỹ kim
để đưa Nam Việt Nam tới một thế phòng thủ tối thiểu chống lại sự
xâm chiếm được Nga và Tàu hỗ trợ. Sự viện trợ bổ
túc này của Hoa Kỳ hợp với tinh thần và ý
định của Hiệp Định Ba Lê. Hiệp Định này vẫn là
phương thức thực tiễn làm việc cho một sự thỏa hiệp ôn
hòa tại Việt Nam.”
“Việc xử dụng hỏa lực không quân Hoa Kỳ để tăng cường khả
năng Nam Việt Nam chống lại sự xâm chiếm của Bắc Việt sẽ đem lại
sự hỗ trợ cả trên hai bình diện chiến cụ và
tâm lý đối với Chính Phủ Nam VN và đồng thời
sẽ đem lại một thế trì hoãn cần thiết trên chiến
trường. Tuy nhiên tôi nhìn nhận những phiền phức khả
quan về mặt pháp lý và chính trị nếu thi
hành chọn lựa này.”
-Về kế hoạch di tản, Đại tướng Weyand đề nghị
“Xét về mặt biến
chuyển nhanh chóng của các biến cố, Tổng Thống cần phải
quan tâm tới một vấn đề khác. Dựa trên các
lý do thận trọng, Hoa Kỳ phải có ngay bây giờ một
kế hoạch di tản đại qui mô 6 ngàn kiều dân Mỹ
và hàng vạn người Nam Việt Nam và Đệ Tam Quốc Gia
mà chúng ta có bổn phận phải bảo vệ. Bài
học tại Đà Nẵng cho thấy công việc di tản này
đòi hỏi tối thiểu một chiến đoàn Hoa Kỳ của một sư
đoàn tăng cường yểm trợ bởi không lực tác chiến để
dập tan pháo binh và hỏa lực phòng của Bắc Việt.
Khi tình thế đòi hỏi, một lời xác định công
khai về chính sách này phải được công bố
và Bắc Việt phải được cảnh cáo một cách rõ
ràng : về ý định của Hoa Kỳ sẽ dùng tới vũ lực để
bảo toàn tính mạng của các người được di tản.
Hành Pháp phải được Quốc Hội cho toàn quyền xử
dụng các hình phạt quân sự chống lại Bắc Việt nếu
họ cản trở công cuộc di tản.”
“Thế giới đánh giá sự trung tín của Hoa Kỳ
trên tư cách một đồng minh tại Việt Nam. Để duy trì
sự tin tưởng đó, chúng ta phải thực hiện một nỗ lực tối
đa trong việc hỗ trợ cho Nam Việt Nam ngay bây giờ.”
-Về vai
trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ,
Đại tướng Weyand đề nghị và phân tích như sau:
“Điều gì Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong
những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những
biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối
với điều gì Sàigòn hay Hànội làm hay
không làm. Một mình Hoa Kỳ không thể cứu
vãn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù
có vô tình đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống
hố chôn.”
“Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân
thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn–một
phần về mặt thể lý nhưng chính yếu về mặt tâm
lý–cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu
có thể, ép buộc đình trệ hành động. Điều
này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong tình thế hiện tại
thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành
động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng
có khía cạnh tâm lý mạnh mẽ, cần thiết nếu
muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự
tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước
khác hơn là đầu hàng.”
“Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt
Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt.
Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc
Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này
đã khiến Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu triệt thoái
khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các
tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các
hành động sau đây: Ngay sau khi ký kết Hiệp Định Ba
Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ trình để cung ứng cho nhu cầu
của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được
xuất ra–thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim
còn lại bị từ khước không được tháo khoán.
Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ trình để
duy trì khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp
thuận–thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này
đã giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến
Chính Phủ Nam VN dùng tới biện pháp triệt
thoái chiến lược.”
“Điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của quốc gia Việt Nam
nằm trong khả năng của Chính Phủ NVN ổn định tình thế,
và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn
công của Bắc Việt. Khả năng ổn định tình thế này
tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng
giới quân nhân và dân sự là chưa đến
nỗi mất tất cả, và còn có thể chận đứng Bắc Việt.
Tuy đó là trách vụ chính của Chính
Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang
tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin.”
“Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để
gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam–Bắc lẫn
Nam–là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn
công hiện tại của Băc Quân. Cho dù chỉ giới hạn
trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời
gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất
lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự
và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt
tâm lý đối với các chiến binh xâm lăng. Những
tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới
lãnh đạo Hànội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ
mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại
có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính
thức họ đã hứa với Hoa Kỳ.”
“Giới lãnh đạo quân sự Nam Việt Nam thuộc mọi cấp bậc đều
luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản
công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm
này hợp lý về mặt quân sự. Tôi ý thức
đến các khó khăn về mặt pháp lý và
chính trị gây nên bởi việc thi hành biện
pháp không tập này.”
“Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là
xác định cách rõ ràng Hoa Kỳ quyết
tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh
định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao
cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đã
hứng khởi lên rõ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do
Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra tình hình
đặt chân tới Sàigòn. Có thêm những
hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của
Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của
Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối
quan tâm chung tại mọi lãnh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự
ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác
định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng
trách trong và ngoài chính phủ; và
sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến
cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến tình
hình tại Việt Nam.”
Vương
Hồng Anh
Nguồn:
http://ongvove.wordpress.com/2010/04/29/nh%e1%bb%afng-ngay-cu%e1%bb%91i-vnch-3/
Tướng Lãnh
Việt Nam Cộng Hòa
30/04/1975
Ngày gởi : 01/05/2009
Người gởi : ovv
Những
Vị
Tướng
Tự
Sát
:
* Thiếu Tướng Nguyễn
Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975)
Vào lúc 11 Giờ 30,
ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Nam sau khi từ giã các
binh sỉ đã tự kết liễu đời mình.
* Chuẩn
Tướng Lê Văn Hưng,
Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 (19??-1975 )
Tướng Hưng đã được vinh danh
“Anh Hùng An Lộc” trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến
trường An Lộc Bình long. Tướng Hưng đã tự sát
vào tối ngày ngày 30.04.75 tại văn phòng
riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng thời
là nơi gia đình Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi
nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ
biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau đó, ông
đã quay vào văn phòng, khóa chặt cửa
và tự sát bằng súng lục vào lúc 8
giờ 45 phút tối.
* Chuẩn Tướng
Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh
(1933-1975)
Sau khi nhận được lệnh phải đầu
hàng, Tướng Vỹ đã tự sát bằng súng lục
vào lúc 11 Giờ, ngày 30.04.75 tại tổng hành
dinh ở Lai Khê.
*
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh
(1925-1975)
Vào đêm ngày
ngày 30.04.75, Thiếu Tướng Hai đã tự sát tại trung
tâm Ðồng Tâm.
* Thiếu Tướng Phạm Văn
Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975)
Thiếu Tướng Phú là
người trách nhiệm trong cuộc hành quân triệt
thoái quân dân khòi ba tỉnh Cao Nguyên,
đã bị thất bại nặng nề và đau đớn nhất trong quân
sử cận đại. Tướng Phú tự tử tại nhà vào
ngày 30.04.75.
* Ðại Tá Hồ
Ngọc Cẩn, Tỉnh trưởng Chương Thiện (1940-1975)
Ðại Tá Hồ ngọc Cẩn đã anh dũng chiến đấu tới
cùng và không chịu đầu hàng. Ðại
Tá Cẩn đã bị quân cộng sản đem ra xử trước
công cộng và sau đó bị xử bắn tại chỗ.
* Ðại Tá
Ðặng Sĩ Vinh
Vào lúc 2 giờ
ngày 30.04.75, hai tiếng đồng hồ sau khi Dương Văn Minh ra lịnh
đầu hàng, Ðại Tá Vinh, cùng gia đình
gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.
* Trung-Tá
Cảnh-Sát Nguyễn-Văn-Long
Trung-Tá Cảnh-Sát
Nguyễn-Văn-Long tuẩn tiết sáng 30-4-75 dưới chân tượng
đài Thủy quân lục chiến.
Những
Vị
Tướng
đã
rời
Việt Nam trước ngày 3/4/1975:
01. Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu,
Tồng Thống kiêm Tư Lệnh Việt Nam Cọng Hoà. Lúc từ
chức (ngày 21 tháng 4, 1975), ông tuyên bố
là ông trở về quân đội để tiếp tục chiến đấu.
Ngày 25,4,1975 ông Thiệu cùng ông Trần Thiện
Khiêm rời Việt Nam trên một chuyến bay do Toà
Ðại Sứ Hoa Kỳ tổ chức.
02 Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng
Kiêm Tồng Trưởng Quốc Phòng – từ chức thượng tuần
tháng tư 1975 và rời Việt Nam cùng lúc với
Nguyễn văn Thiệu .
03 Ðại Tướng Cao văn Viên, Tồng Tham Mưu
Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
Đại Tướng Cao Văn Viên
04 Trung Tướng Ðặng văn
Quang, Phụ Tá An Ninh
Quốc Gia, Phủ Tổng Thống.
05 Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Phụ
Tá Tồng Tham Mưu Trưởng, Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà.
06 Trung Tướng Ðồng văn Khuyên, Tham Mưu
Trưởng, Tổng Tham Mưu, Kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
07 Trung Tướng Trần văn Trung, Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị.
08 Trung Tướng Phan Trọng Chinh, Tổng Cục Trưởng, Tổng
Cục Quân Huấn.
09 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh
Quân Ðoàn 1, Quân Khu 1. Người hùng của
chiến trường Thành nội Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 và
chiến trường Huế-Quảng Trị trong trận chiến Mùa Hè đỏ lửa
1972.
10 Trung Tướng Nguyẽn văn Toàn, Tư Lệnh
Quân Ðoàn 3, Quân Khu 3.
11 Trung Tướng Nguyẽn văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ
Ðô.
12 Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Phó
Quân Ðoàn 1.
13 Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư Lệnh Phó
Quân Khu 1.
14 Chuẩn Tướng Trần văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Ðoàn
2 Bộ Binh.
15 Thiếu Tướng Nguyễn duy Hinh, Tư Lệnh Sư Ðoàn 3
Bộ Binh.
16 Chuẩn Tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư
Ðoàn 22 Bộ Binh.
17 Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư
Ðoàn Nhảy Dù.
18 Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư
Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
19 Phó Ðề Ðốc (Trung Tướng) Chung Tấn Cang,
Tư Lệnh Hải Quân.
20 Trung Tướng Trần văn Minh, Tư Lệnh Không
Quân.
21 Thiếu Tướng Võ xuân Lành, Tư
Lệnh Phó Không Quân.
22 Chuẩn Tướng Ðổ Kiến Nhiễu, Ðô Trưởng
Sài Gòn.
23 Thiếu Tướng Nguyẽn Khắc Bình, Tư Lệnh Cảnh
Sát kiêm Ðặc Uỷ Trưởng Tình Báo Trung
Ương, cùng các vị Tướng nắm giữ các ngành
của lực lượng Cảnh Sát.
Những Vị Tướng đã rời Việt Nam trong
ngày 30/4/1975:
01 Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ,
cựu
Tư
Lệnh
Không,
cựu Phó Tổng Thống. Những ngày
cuối cùng, ông tuyên bố là sẽ rút về
đồng bằng sông Cửu Long tổ chức tử thủ.
02 Trung Tướng Vĩnh Lộc, nhận chức Tồng Tham Mưu Trưởng,
Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà lúc 3 giờ chiều
29.04.1975.
03 Chuẩn Tướng Nhuyễn Hữu Tần, Tư Lệnh Sư
Ðoàn 4 Không Quân, kiêm Tư Lệnh
Không Quân từ ngày 29.04.1975.
04 Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, nhận chức Tổng Cục
Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận lúc 5 giờ chiếu 29.04.1975. Khi nhận
chức ông nói rằng: Nếu không xong thì
ông xuống Cần Thơ đem Liên Ðoàn 7 Công
Binh Kiến Tạo lên Thất Sơn (tỉnh Châu Ðốc) tổ chức
chiến đấu.
Những Vị Tướng đã ở Lại Việt Nam sau
ngày 30/4/1975:
Những Vị bị Cộng Sản đày đọa
trong các trại tù tập trung từ 12 năm đến 17 năm
01 Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh Tiền Phương của
Sư Ðoàn 3 tại chiến trường Phan Rang, bị bắt khi thất thủ.
02 Chuẩn Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh Sư
Ðoàn 6 Không Quân, bị bắt cùng Trung
Tướng Nguyễn vĩnh Nghi khi chiến trường Phan Rang thất thủ.
03 Chuẩn Tướng Trần văn Cẩm, Tư Lệnh Phó,
Quân Ðoàn 2.
04 Chuẩn Tướng Lê Trung Tường, Tham Mưu Trưởng
Quân Ðoàn 3.
05 Chuẩn Tướng Huỳnh văn Lạc, Tư Lệnh Sư Ðoàn
9 Bộ Binh.
06 Thiếu Tướng Lê minh Ðảo, Tư Lệnh Sư
Ðoàn 18 Bộ Binh.
07 Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, Tư Lệnh Sư
Ðoàn 21 Bộ Binh.
08 Thiếu Tướng Lý tòng Bá, Tư Lệnh
Sư Ðoàn 25 Bộ Binh.
09 Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, Tư
Lệnh Phó Quân Khu 4.
10 Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng binh chủng
Biệt Ðộng Quân.
11 Chuẩn Tướng Phạm duy Chất, Chỉ Huy Trưởng Biệt
Ðộng Quân Quân Khu 2, chỉ huy cuộc hành
quân rút bỏ tỉnh Cao Nguyên hồi tháng 3.1975.
12 Ðại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư
Lệnh Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
13 Ðại Tá Lê hữu Ðức, Quyền Tư Lệnh
Phó Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến.
14 Chuẩn Tướng Lê văn Thân, Tư Lệnh
Phó Biệt Khu Thủ Ðộ. Nhận chức chiều 29.04.1975.
15 Chuẩn Tướng Lê trung Trực, Trường Cao Ðẳng
Quốc Phòng.
16 Ðại Tá Nguyễn xuân Hường, Tư Lệnh Lữ
Ðoàn 1 Kỵ Binh.
17 Ðại Tá Nguyễn đức Dung, Tư Lệnh Lữ
Ðoàn 2 Kỵ Binh.
18 Chuẩn Tướng Trần quang Khôi, Tư Lệnn Lữ
Ðoàn 3 Kỵ Binh.
19 Ðại Tá Trần ngọc Trúc, Tư Lệnh Lữ
Ðoàn 4 Kỵ Binh.
20 Thiếu Tưóng Trần bá Di, Chỉ Huy Trưởng
Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
21 Chuần Tướng Vũ văn Giai, cựu Tư Lệnh Sư
Ðoàn 3 Bộ Binh.
22 Chuần Tướng Lê văn Tư, cựu Tư Lệnh Sư
Ðoàn 25 Bộ Binh.
23 Thiếu Tướng Văn Thành Cao, Tổng Cục Phó
Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
24 Thiếu Tướng Ðoàn văn Quảng, cựu Tư Lệnh
Lực Lượng Ðặc Biệt. Chết tại trại tù cải tạo Nam Hà,
tỉnh Hà Nam Ninh.
25 Trung Tá Bùi thế Dung, Thứ Trưởng Quốc
Phòng trong thành phần chánh phủ chưa kịp
trình diện.
26 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn May, Tư
Lệnh Vùng 5 Duyên Hải.
27 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn bá Trang,
Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Nhiệm Thủy Bộ 211.
28 Hải Quân Ðại Tá Nguyễn văn Tấn,
Quyền Tư Lệnh Hải Quân vào những giờ cuối cùng.
29 Thiếu Tướng Cảnh Sát Bùi văn Nhu, Tư
Lệnh Phó Cảnh Sát. Chết tại trại tù cải tạo Nam
Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
30 Cựu Thiếu Tướng Huỳnh văn Cao, Nghị Sĩ.
31 Chuần Tướng Hồ trung Hậu, Binh Chủng Nhảy Dù,
Chánh Thanh Tra Quân Ðoàn 3.
32 Ðại Tá Nguyễn khắc Tuân nhận chức
Tham Mưu Trưởng Tổng Tham Mưu chiều 29.04.1975. Chết tại trại tù
cải tạo Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh.
33 Ðại Tá Lại Ðức Chuẩn, Trưởng
Phòng Nhất Tổng Tham Mưu
34 Ðại Tá Phạm bá Hoa, Tham Mưu Trưởng
Tổng Cục Tiếp Vận.
35 Ðại Tá Ngô văn Minh, Tham Mưu Trưởng
Biệt Khu Thủ Ðô.
36 Ðại Tá Vũ Ðức Nghiêm.
Những
Vị
bị
Cộng
Sản
đày đọa trong các trại tù tập trung
trên 10 năm
01 Cựu Trung Tướng Nguyễn hữu
Có.
02 Cựu Ðề Ðốc Trần văn Chơn.
03 Cựu Thiếu Tướng Nguyễn chấn Á.
04 Cựu Thiếu Tướng Phan Ðình Thứ, Tự Lam Sơn.
05 Ðại tá Ðàm Trung Mộc cưụ Viện Trưởng Học Viện
Cảnh Sát QG. Sau 30-4, ông bị giam tại Chí
Hòa để rồi tháng 2/1976, ông bị đưa ra Vĩnh
Phú rồi về Hà Tây, và ông mất tại
đó vào ngày 14/11/1982, thọ 65 tuổi.
Những
Vị
bị
Cộng
Sản
bị giam chưa đến 3 năm
01 Thiếu Tướng Quân Y Vũ
ngọc Hoàn, cựu Cục Trưởng Cục Quân Y.
02 Chuẩn Tướng Quân Y Phạm bá Thanh, Cục Trưởng Cục
Quân Y.
03 Ðại Tá Nguyễn văn Lộc, Tư Lệnh Sư Ðoàn 106
Biệt Ðộng Quân. Sư Ðoàn này thành
lập vào những ngảy cuối tháng 4.1975 và bảo vệ
vùng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây
Sài Gòn. Thời gian trong tù chưa đến một năm.
04 Ðại Tá Dương thanh Sơn, em ruột Tổng Thống Dương văn Minh.
Nguồn:
http://ongvove.wordpress.com/2009/05/01/t%c6%b0%e1%bb%9bng-lanh-vnch-30041075/
Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa
Tự Truyện
Phạm Bá Hoa (K5)
Trân trọng kính chào
"quí bạn", những tế bào đã tạo nên
"tôi".
"Tôi bị bức tử" cách nay
vừa hơn một phần tư thế kỷ, nhưng cứ vào mùa hè oi
bức, quí bạn đã cùng nhau tổ chức "cúng giỗ
tôi" với những nghi thức quân sự trong những điều kiện
mà quí bạn cố gắng có được. Lễ hi trang
nghiêm đó, có tên gọi "Ngày Quân
Lực". Quí bạn vẫn nhớ đến tôi. Điều đó tôi
biết, và tôi rất xúc động!
Vì vậy, tôi thấy cần phải
tâm sự đôi điều với quí bạn về bản thân
tôi, bản thân "một con người" có tuổi đời quá
trẻ, nhưng tôi có sức mạnh của một lịch sử hào
hùng, với dũng khí của một dân tộc vẻ vang,
và xông pha trận mạc bằng lý tưởng tự do dân
chủ. Những tưởng, mình sẽ góp phần quan trọng đạt đến mục
tiêu bảo vệ và phát triển quốc gia, mà trong
đó mọi người được sống trong chế độ dân chủ tự do, được
tôn trọng các quyền sống, bao gồm quyền mưu tìm
hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, và
quê hương Việt Nam sẽ trở nên hùng mạnh. Tôi
luôn giữ cho mình niềm hảnh diện về điều tôi nghĩ.
Bởi, tôi tin là đất nước thân yêu của
chúng ta, thể nào cũng đạt đến đài vinh quang bằng
sức sống của mình, sức sống của một dân tộc đạo nghĩa
và hiếu hòa, cầu tiến và nhẫn nại. Luôn
luôn đặt tổ quốc lên trên mọi tổ chức, cũng như mọi
quyền lợi khác.
Thưa quí bạn, tôi
không tin là có định mệnh, nhưng nếu quả thật
có "định mệnh" trong cuộc sống này, thì .......
*****
1. Giai đoạn hình
thành (1951-1954).
"Tôi" được sinh ra trong một
hoàn cảnh khác thường so với "những đứa bạn xa xôi"
của tôi, và cái chết của tôi cũng chẳng giống
ai trên cái cõi đời này. Cha mẹ tôi
đều là người Việt Nam, hoàn toàn Việt Nam. Trong
người tôi là dòng máu Việt Nam, hoàn
toàn Việt Nam. Nhưng người "cho phép tôi trở
thành bào thai" lại ở cách xa cha mẹ tôi 7
múi giờ về phía tây trên quả địa cầu,
đó là nước Pháp. Lúc bấy giờ là đầu
trung tuần tháng 5.1950, quốc hội Pháp thông qua dự
luật thành lập một quân đi cho quốc gia Việt Nam với
quân số 60.000 người. Nhưng mãi 2 năm sau, một văn kiện
gọi là Dụ (về sau gọi là Sắc Lệnh) của Quốc Trưởng Bảo
Đại, tôi mới được chào đời tại Sài Gòn, thủ
đô nước Việt Nam thống nhất. Vị ký văn kiện cho tôi
chào đời là "cha" tôi. Hôm ấy là
ngày 1 tháng 5 năm 1952. "Mẹ" tôi là Thiếu
tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng. Ngôi nhà đầu
tiên của tôi tọa lạc trên đại l Trần hưng Đạo, thuộc
Quận 5. Trong khai sanh ghi tên tôi là "Bộ Tổng Tham
Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam".
Tôi xin nhắc lại đôi
nét về lịch sử cận đại nước ta, như để giải thích với
quí bạn khi tôi dùng chữ "thủ đô nước Việt
Nam thống nhất" mà tôi vừa nói đến. Vào nửa
cuối thế kỷ 19, Việt Nam ta bị thực dân Pháp xâm
lăng và cai trị. Họ chia nước ta như là 3 quốc gia nhỏ
mà chúng gọi: Nam Kỳ là thuộc địa, Trung Kỳ với
Bắc Kỳ là bảo hộ. Nhưng cốt lõi của chính
sách cai trị, dù tên gọi như thế nào
thì cả 3 Kỳ cũng đều là thuộc địa.
Trong thế giới chiến tranh lần thứ 2,
quân đội Nhật Bản lật đổ Pháp tại Đông Dương hồi đầu
tháng 3.1945. Đến tháng 8.1945, Vua Nhật Bản ra lệnh đầu
hàng hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, và thế chiến chấm dứt từ
đó. Quân đội Anh được trao trách nhiệm giải giới
quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở xuống phía nam, quân
Trung Hoa của Thống Chế Tưởng Giới Thạch giải giới từ vĩ tuyến 16 trở
lên phía bắc. Không biết có phải là
giải giới quân Nhật để trao quyền cai trị lại cho thực dân
Pháp hay không, nhưng rõ ràng là thực
dân Pháp đã theo chân quân đội Anh quay
lại chiếm Việt Nam. Đầu tiên là Sài Gòn, rồi
các tỉnh đồng bằng Cửu Long. Lúc ấy, các đảng
chính trị khuynh hướng quốc gia dân tộc, quá tin
vào ông Hồ Chí Minh - Chủ tịch đảng cộng sản
nên bị ông Hồ chí Minh giành lấy chánh
quyền và thủ tiêu hầu hết những nhân vật cao cấp,
sau đó ông Hồ đứng ra thương thuyết với Pháp.
Thương thuyết không thành. Hai bên thực dân
Pháp và Việt minh cộng sản- đánh nhau từ trung
tuần tháng 12.1946.
Khi Pháp bị sa lầy trong cuộc
chiến với cộng sản Việt Nam, chánh phủ Pháp thực hiện
chính sách đẩy người Việt không cộng sản nhập cuộc
đánh nhau với người Việt cộng sản, bằng cách thành
lập quân đội cho quốc gia Việt Nam. Trong bối cảnh đó, cựu
hoàng Bảo Đại và các đảng chính trị quốc
gia cùng thân hào nhân sĩ, vận động cho một
nước Việt Nam thống nhất và độc lập trong khối Liên Hiệp
Pháp. Hạ tuần tháng 4.1949, một hội nghị với khoảng 2.000
người tham dự, mà một phần ba trong số đó là
Pháp kiều có cơ sở kinh doanh tại Việt Nam. Hội nghị đồng
thuận bãi bỏ chế độ thuộc địa, nước Việt Nam là một quốc
gia thống nhất. Và chánh phủ Pháp đã hợp
thức hóa quyết định của hội nghị. Đó cũng là
lúc cựu hoàng Bảo Đại về nhận chức Quốc Trưởng.
Việc thành lập quân đội
cho quốc gia Việt Nam, xuất phát từ quyền lợi của nước
Pháp thực dân. Điều đó chắc không bạn
nào nhầm lẫn. Và rất có thể vì vậy
mà có bạn thắc mắc; "Tại sao cựu hoàng và
các đảng chính trị lại tham gia vào chính
sách đó của Pháp". Thật ra quí vị ấy nhận
định rằng: "Giữa Pháp với Việt minh cộng sản, chẳng bên
nào vì tổ quốc và dân tộc Việt Nam cả, nhưng
giữa hai kẻ xấu mà ta phải chọn một, ta nên chọn kẻ xấu
ít. Giữa Pháp với Việt minh cộng sản, các vị
đã tựa vào Pháp -kẻ xấu ít- để diệt Việt
minh cộng sản -kẻ xấu nhiều- sau đó tương kế tựu kế đẩy
Pháp ra khỏi Việt Nam". Mục tiêu là như vậy, nhưng
đạt được đến đâu, chắc quí bạn đã rõ.
Riêng "bản thân tôi", tôi cám ơn nhận
định và hành động của quí vị ấy, vì từ
đó mà tôi có mặt trên cõi đời
này.
Như nói ở trên, tôi
sinh ra trong một hoàn cảnh khác thường. Khác
thường vì thời gian "thai nghén" quá lâu,
và khác thường vì có một số "cơ bắp" (đơn
vị) của tôi đã chào đời trước tôi vài
tuổi, là:
- Trường sĩ quan Việt Nam tại Huế
1948, sau đó chuyển lên Đà Lạt tiếp nhận trường
võ bị liên quân đặc biệt của Pháp, và
đổi tên là "Trường Võ Bị Liên Quân
Đà Lạt". Đầu những năm 1960, trường này cải tổ chương
trình huấn luyện và thời gian đào tạo sĩ quan hiện
dịch lên đến 4 năm, và đổi tên là ‘Trường
Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt’.
- Thiết giáp 1.1.1951.
- Truyền tin 1.2.1951.
- Quân vận 1.5.1951.
- Nhảy dù 1.8.1951.
- Công binh 1.9.1951.
- Pháo binh 1.11.1951.
- Trường Sĩ quan trừ bị Thủ đức và Nam định, 12.1950.
Tôi không chọn ngày
tháng mà cơ bắp đầu tiên của tôi chào
đời để làm ngày sinh của mình, vì lẽ
lúc bấy giờ cơ bắp đó tuy dòng máu Việt
nhưng cha mẹ là Pháp. Quân nhân của đơn vị
là Việt Nam, nhưng chỉ huy là sĩ quan Pháp. Vậy
là tôi chỉ mới có cái đầu. Cha mẹ tôi
-nhất là mẹ tôi- rất khổ nhọc trong cố gắng tạo cho
tôi từng cơ bắp, từng hệ thần kinh, để tôi có đủ
các bộ phận trong người, cho dù đầu tôi hơi lớn
mà thân hình nhỏ xíu ốm o cũng được, miễn
là tôi thành một con người rồi theo thời gian
tôi sẽ phát triển. Vượt bao khó khăn từ nhân
sự -nhất là cán bộ chỉ huy- đến dụng cụ chiến tranh, bước
đầu tôi có được một số cơ bắp và từng phần của hệ
thần kinh, đó là hơn 50 tiểu đoàn bộ binh
và một số các ban chỉ huy Tiểu khu, Phân khu,
Quân khu.
Trong khi trên chiến trường,
hoạt động quân sự của Việt minh cộng sản -với sự yểm trợ tối đa
của Trung Hoa cộng sản- làm cho bộ tư lệnh viễn chinh
Pháp ngày càng bối rối bởi những trận đánh
với cấp đại đoàn, một loại đơn vị chiến thuật trên cấp
trung đoàn nhưng dưới cấp sư đoàn. Một căn cứ kiên
cố bậc nhất của Pháp tại chiến trường Đông Dương với
12.000 quân trú phòng, được xây dựng
vùng lòng chảo Điện Biên Phủ, gần biên giới
Lào. Mục tiêu là nhử các đơn vị lớn của Việt
minh cộng sản đến để Pháp dùng hỏa lực pháo binh
và không quân tiêu diệt. Nhưng, sau 3
tháng đánh nhau dữ dội với những tổn thất nặng nề cho cả
hai bên, ngày 7 tháng 5 năm 1954, quân
trú phòng Pháp đã đầu hàng.
Và sự kiện này đã dẫn đến Hiệp Định đình
chiến ngày 20.7.1954 tại Genève, Thụy Sỉ.
Hiệp định đó không
có chữ ký của Việt Nam và Hoa Kỳ. Lúc bấy
giờ, dưới Quốc Trưởng có một chánh phủ do Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Biết bao vấn đề khó
khăn khi đất nước chỉ còn lại từ vĩ tuyến 17 trở xuống, trong
đó công tác định cư cho 1 triệu đồng bào
miền Bắc chạy nạn cộng sản vào Nam, là một trong những
mục tiêu lớn của chánh phủ mới nhận trách nhiệm hai
tuần lễ trước ngày ký hiệp định Genève.
Về phần tôi, đến cuối năm 1954,
được xem là giai đoạn hình thành. "Cơ thể
tôi" vào cuối giai đoạn 1950-1954, có đến gần 200
ngàn tế bào (mỗi tế bào xin hiểu là một
quân nhân), nhưng tôi hãy còn là
"một thiếu nhi" cả về tổ chức, trang bị, chiến đấu, và nhất
là về mặt chỉ huy. Có thể vì vậy mà từ
bây giờ, anh bạn Hoa Kỳ nhận giúp cho tôi trưởng
thành các mặt càng sớm càng tốt, để
tôi đủ khả năng bảo vệ quốc gia trước khi thằng thanh niên
cộng sản miền Bắc tràn xuống tấn công, thực hiện mục
tiêu chiến lược của cộng sản thế giới là biến các
quốc gia vùng Đông Nam Á Châu trở
thành cộng sản. Tôi nói "có thể", chớ
nói cho đúng là anh bạn Hoa Kỳ nhắm vào mục
tiêu chiến lược của anh ta, giúp tôi ngăn chận
"thằng thanh niên" miền bắc, con bài chủ lực của gia
đình nó có cái tên là "Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa", cũng là tôi
giúp anh bạn Hoa Kỳ ngăn chận " nó với anh em bạn
bè nhà nó tràn xuống chiếm nhà
tôi và nhà của bạn bè hàng xóm
tôi" nữa. Bởi vì "các nhà hàng
xóm" tôi cũng là bạn bè thân thiết của
anh bạn Mỹ. Điều đó có nghĩa là anh bạn Hoa Kỳ
không phải hoàn toàn giúp tôi
đâu nhé. "Có qua có lại" mà.
Dưới đây là những "cơ bắp
chánh" của tôi, mà quí bạn là những
thành viên trong đó:
Lục Quân.
- Bộ binh, có: 67 tiểu đoàn. Trường Võ Bị
Liên Quân Đà Lạt. Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
(Trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định chỉ đào tạo khóa duy
nhất). Trung Tâm Huấn Luyện Quán Tre (tiền thân của
Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung).
- Nhảy Dù, có 5 tiểu đoàn với phiên hiệu 1,
3, 5, 6, 7. Đến tháng 9.1954, các tiểu đoàn được
tổ chức thành Liên Đoàn Nhảy Dù.
- Thiết Giáp, có 1 trung đoàn thám
thính và 5 chi đi biệt lập với 1 trung tâm huấn
luyện.
- Pháo Binh, có 5 tiểu
đoàn với phiên hiệu 1, 2, 3, 4, 5.
- Truyền Tin, có 6 đại đội.
- Công Binh, có 6 đại đội.
- Quân Vận, có 6 đại đội.
Không Quân.
Là một trong ba hệ cơ bắp quan trọng nhất (quân chủng) của
tôi, nhưng lớn hơn tôi 1 tuổi. Dưới quyền có "2 Phi
Đoàn Quan Sát Trợ Chiến" được trang bị phi cơ Morane
Saulnier. Ngay trước cuối năm 1954, nhận thêm 39 phi cơ do Mỹ
viện trợ qua trung gian của Pháp, gồm Cessna L19, phi cơ vận tải
C45 và C47.
Hải Quân.
Cũng là hệ cơ bắp quan trọng của cơ thể tôi. Lớn hơn
tôi 2 tháng tuổi. Dưới quyền có "3 Hải Đoàn
Xung Phong" trang bị LCM và LCVP. Ngoài ra còn
có 3 Liên Đoàn Tuần Giang và một lực lượng
com-măng-đô. Tuy không thuộc hải quân, nhưng khi
chuyển vào Nam thì sáp nhập vào một tổ chức
có tên là "Hải Quân B Binh". Binh chủng
này là tiền thân của "Thủy Quân Lục Chiến".
(chào đời đầu tháng 5.1955).
2. Giai đoạn phát triển lần
thứ nhất (1955-1967).
Hạ tuần tháng 10.1955, sau cuộc trưng
cầu ý dân với kết quả Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế,
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố "Việt Nam là
một nước cộng hòa", gọi ngắn gọn là "Việt Nam Cộng
Hòa" và tự ông trở thành Tổng Thống. Cũng từ
đây, tiêu đề thường dùng trên các văn
thư quân sự, ghi tên tôi là "Quân Đội
Việt Nam Cộng Hòa".
Một kế hoạch cải tiến tôi từ
những cơ bắp nhỏ, rời rạc, trở thành những đơn vị trong một hệ
thống tổ chức lớn hơn, chặt chẻ hơn, thống nhất trang bị, thống nhất
chỉ huy, thống nhất huấn luyện. Tuy đã đình chiến, nhưng
mãi đến đầu tháng 7.1955, "cái đầu" tôi mới
được phép điều khiễn toàn bộ các cơ bắp của
mình (chỉ huy quân đội). Nửa đầu năm 1956, khi người
lính viễn chinh cuối cùng của Pháp rời khỏi Việt
Nam, tôi dọn đến ngôi nhà bề thế hơn, khang trang
hơn, tọa lạc gần cổng vào phi trường Tân Sơn Nhất. Trước
mặt là đường Võ Tánh nối dài và sau
lưng là đường Võ di Nguy. Nhà tôi có
tên là "trại Trần hưng Đạo".
Vậy là, trang sử nước Việt Nam
thuộc địa của Pháp, được khép lại từ đây.
Lục Quân.
- Bộ Binh. Ngay trong năm đầu, "cơ thể" tôi từ những cơ bắp nhỏ
là cấp tiểu đoàn được tổ chức lại thành 4 Sư
Đoàn Dã Chiến (1, 2, 3, 4) và 6 Sư Đoàn
Khinh Chiến (11, 12, 13, 14, 15, 16). Cuối năm 1959, 10 sư đoàn
này được tổ chức lại thành 7 "Sư Đoàn Bộ Binh".
Quân số mỗi sư đoàn là 10.500 người, bằng 2 lần
quân số sư đoàn khinh chiến. Các sư đoàn
có phiên hiệu 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23. Những năm sau
đó, Sư đoàn 9, 18, và 25 được thành lập.
Cộng chung là 10 sư đoàn. Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn 1, 2, 3, 4, lần lượt chào đời với trách nhiệm
an ninh toàn lãnh thổ.
- Nhảy Dù. Năm 1962, Liên Đoàn được phát
triển lên cấp Lữ Đoàn, và tiếp tục phát
triển thành Sư Đoàn Nhảy Dù vào cuối giai
đoạn.
- Biệt Động Quân. Binh chủng được thành lập năm 1960 với
cấp đại đội. Ngay trong nửa đầu năm 1960, đã hoàn tất 50
đại đội và hoạt động sâu trong vùng thường ghi nhận
có địch. Năm 1963 lên đến 86 đại đội. Dần dần hình
thành các bộ chỉ huy tiểu đoàn bên cạnh
các Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn/Vùng Chiến Thuật,
với các phiên hiệu 11, 21, 22, 31, 32, 33, và 41.
- Thiết Giáp. Một số đơn vị trước
1954 cộng với một số mới thành lập, binh chủng này
có 4 Trung Đoàn Kỵ Binh thiết giáp được trang bị
thám thính xa, chiến xa M24. Ngoài ra còn
có 1 Liên Đoàn Thủy Xa. Năm 1963, sau thời gian
trắc nghiệm tại Sư Đoàn 7 và 21 Bộ Binh thành
công, Thiết Giáp được trang bị thiết vận xa M113 và
M114. Năm 1964-1965, chiến xa M41 thay thế chiến xa M24 và
thám thính xa V100 thay thế thám thính xa
M8 quá lỗi thời.
- Pháo Binh. Năm 1955, pháo binh có 9 tiểu
đoàn là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 12, 32, 34. Năm sau đó,
thành lập thêm tiểu đoàn 23 và 25. Đồng thời
tiểu đoàn 34 pháo binh là đơn vị đầu tiên
được trang bị đại bác 155 ly. Theo đà bành trướng
chiến tranh của quân cộng sản, pháo binh trong tổ chức mỗi
Sư Đoàn Bộ Binh có 2 tiểu đoàn pháo binh
105 ly được trang bị 18 khẩu cho mỗi tiểu đoàn (thay vì
trước đó là 12).
- Lực Lượng Đặc Biệt, được thành lập vào những năm cuối
giai đoạn, với nhiệm vụ hoạt động dọc biên giới Việt Nam -
Cambodia và Việt Nam - Lào. Vì là "nhiệm vụ
đặc biệt", nên tổ chức không theo khuôn mẫu
các binh chủng khác. ‘A’ là đơn vị nhỏ nhất, từ
những căn cứ trong rừng dọc biên giới hoặc những hành lang
mà quân cộng sản dùng xâm nhập, xuất
phát thu thập tin tức hoặc tấn công địch. ‘B’ gồm nhiều A.
Và ‘C’, là bộ chỉ huy đặt cạnh Bộ Tư Lệnh Quân
Đoàn/Vùng Chiến Thuật.
Không Quân.
Năm 1955, tiếp nhận căn cứ Nha Trang và đổi tên là
"Căn Cứ Trợ Lực Không Quân số 1". Năm 1956, tiếp nhận
thêm căn cứ Tân Sơn Nhất và căn cứ Biên
Hòa. Cả hai đổi thành "Căn Cứ Trợ Lực Không
Quân số 2" và "số 3". Tính đến năm 1958,
Không Quân có 7 phi đoàn, gồm: 1 phi
đoàn khu trục, 2 phi đoàn liên lạc, 2 phi
đoàn vận tải, 1 phi đoàn trực thăng, và 1 phi
đoàn đặc vụ.
Từ 1961 đến 1964, Hoa Kỳ liên
tục cung cấp nhiều loại phi cơ, nhất là khu trục cơ AD6, trực
thăng H34. Đơn vị tác chiến và yểm trợ tác chiến
được phát triển lên cấp Không Đoàn tại mỗi
Vùng chiến thuật, với phiên hiệu các Không
Đoàn tính từ Đà Nẳng vào:
- Không Đoàn 41 đồn trú Đà Nẳng.
- Không Đoàn 62 đồn trú Plei Ku.
- Không Đoàn 23 đồn trú Biên Hòa.
- Không Đoàn 33 đồn trú Tân Sơn Nhất.
- Và Không Đoàn 74 đồn trú Cần Thơ.
Năm cuối của giai đoạn này,
có 1 phi đoàn khu trục được trang bị phản lực cơ F5.
Phiên hiệu của các đơn vị xếp thành 3 số. Theo
đó, số hàng trăm để chỉ công dụng của đơn vị, như:
Số 1 là phi đoàn liên lạc, số 2 là trực
thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là
khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là hỏa long,
và số 9 là huấn luyện. (không thấy nói đến
số 6)
Hải Quân.
Năm 1955, quân chủng này có một lực lượng
tác chiến với 24 chiến hạm, hơn 110 chiến đỉnh, trong tổ chức 5
Hải Đoàn và 1 Hải Lực. Năm 1959, Lữ Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến tách ra khỏi Hải Quân và trở
thành lực lượng tổng trừ bị. Hải Quân lần lượt tiếp nhận
tàu chiến từ Hải Quân Hoa Kỳ như sau:
- Năm 1956 đến 1963, gồm 31 chiến hạm với 193 chiến đỉnh.
- Năm 1964 đến 1967, gồm 9 chiến hạm và hằng trăm ghe xi-măng
gắn máy Yabuta thay ghe buồm của lực lượng HảiTthuyền.
Cuối giai đoạn 1955-1967.
Tôi trở thành một thanh
niên với đầy đủ cơ cấu một con người. Hệ thần kinh đã
phát triển. Vũ khí trong tay tôi, phần lớn sản xuất
từ đệ nhị thế chiến với một số loại thuộc thế hệ mới. Và giữa
năm 1964, "ba má tôi" là Trung Tướng Nguyễn
Khánh với chức năng Quốc Trưởng kiêm Thủ Tướng, và
Trung Tướng Trần Thiện Khiêm với chức Tổng Trưởng Quốc
Phòng kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Lực, đã
lên án thế vì khai sanh sửa tên tôi một
chữ, thành "Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa". Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, gồm; Hải Quân, Lục Quân,
Không Quân, và Địa Phương Quân, Nghĩa
Quân.
Tôi đã đánh nhau
nhiều lần với thằng thanh niên miền Bắc có cái
tên là "quân đi nhân dân". Cha hắn biết
hành động len lén đẩy hắn vào "nhà
tôi" (Việt Nam Cộng Hòa) để đánh cướp là vi
phạm Hiệp Định đình chiến, nên cha hắn "may cho hắn một
cái áo" ở tiệm may vùng biên giới Việt
Nam-Cambodia hồi cuối năm 1960. Cái áo có
dòng chữ "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam".
Hắn vi vàng trùm cái áo đó lên
người rồi gây sự tùm lum, làm cho "một số
nhân vật ngoại quốc cố tình" (các quốc gia
vì quyền lợi riêng tư mà có thiện cảm với
cộng sản) cho là anh em tôi trong nhà đánh
nhau. Nhưng vải áo của hắn là loại vải thưa, nên
nhiều nhân vật khác đều thấy và biết rõ hắn
là "quân đi nhân dân" miền Bắc xâm nhập
vào đánh chiếm ngôi nhà của tổ tiên
tôi, mà tôi và bà con họ hàng
tôi có trách nhiệm gìn giữ. Do đó
mà các anh bạn hàng xóm là Hoa Kỳ,
Đại Hàn, Úc Đại Lợi, Phi Luật Tân, Thái Lan,
Tân Tây Lan, có cả anh bạn Trung Hoa Dân Quốc
nữa, cùng đến tiếp tay ngăn chận không cho hắn cướp
nhà.
3. Giai đoạn phát triển cao
điểm (1968-1975).
Mở đầu giai đoạn này là
tên thanh niên miền Bắc đánh lén tôi
ngay trong đêm 30 Tết Nguyên đán Mậu Thân
1968. Tuy hắn được ông nội (Nga) ông ngoại (Tàu) hắn
cung cấp vũ khí mới, nhưng hắn đã bị tôi
đánh trả quyết liệt làm hắn lảo đảo lũi chạy về rừng
và nằm liệt cả năm mới hoàn hồn.
Vì hắn có vũ khí
mới, nên anh bạn Mỹ đồng ý cung cấp cho tôi những vũ
khí thuc thế hệ mới, gọi là "chương trình tối
tân hoá quân dụng". Đầu tiên là lực
lượng tổng trừ bị, dần dần đến toàn bộ chủ lực quân.
Chương trình diễn tiến tốt đẹp. Đùng một cái,
nhà anh bạn Mỹ có chuyện buồn phiền (phong trào
phản chiến), nên anh ta phải rút về nước dưới một văn kiện
quốc tế nghe rất "lịch sự" là thi hành Hiệp Định Paris
1973, và một cái tên quốc nội nghe rất chối tai
là "Việt Nam Hóa Chiến Tranh".
Tại sao là "Việt Nam Hóa
Chiến Tranh?" Chính tôi đã đánh nhau với
thằng "thanh niên miền Bắc" ngay từ hiệp định đình chiến
Genève. Vì tuy là đình chiến, nhưng cha mẹ
ông bà nhà nó -khi kéo nhau ra Bắc-
đã giấu nó lại trong đất nhà tôi, và
nó cứ đập phá nhà cửa tôi, bắt giết
dòng họ tôi, và tôi buộc phải đánh trả
nó chớ có phải tôi qua nhà nó
(trên đất bắc) gây sự với nó đâu. Khi
nó được dòng họ nội ngoại chú bác nó
(Nga sô, Trung quốc, và các nước cộng sản
Đông Âu) giúp nó ăn cướp nhà
tôi, các bạn xa xôi đến tiếp tay với tôi chớ
đâu phải thay tôi để đánh nó. Rõ
ràng là tôi vẫn đánh với nó.
Các bạn ấy cũng đánh nó. Cho nên tức
không chịu được! Nhưng nhìn lại mình, nhất
là nhìn lại "cha mẹ tôi" -Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu và Đại Tướng Cao Văn Viên- không thấy
lên tiếng cãi lý gì với anh bạn chơi tri
kiểu ấy. Đành vậy thôi, nhưng tức vẫn tức!
Khi rời Việt Nam, anh bạn Mỹ để lại
cho tôi hầu hết các loại dụng cụ chiến tranh mà anh
ta đang sử dụng, vì chuyên chở về bên kia bờ
Thái Bình Dương tính ra phí tổn có
thể cao hơn trị giá số lượng quân dụng đó, với lại
nó cũng thuộc vào "hàng đã dùng rồi"
chớ có mới mẽ gì đâu. Vì vậy, trong
cách nhìn nào đó, chương trình tối
tân hóa quân dụng cho tôi, chưa chắc bạn
tôi là người hoàn toàn tốt với tôi
đâu. Nhưng dù sao thì tôi cũng phải
"phát triển một cách thần tốc" để có khả năng lấp
vào khoảng trống mà các bạn đó về nước,
bằng cách gia tăng thêm quân số, đẩy mạnh huấn
luyện, tổ chức thêm các đơn vị, để kịp tiếp nhận dụng cụ
trang bị. Trọng tâm là phát triển Hải Quân
và Không Quân, kế đến là Pháo Binh
và Thiết Giáp.
Tính đến đầu năm 1975, con
người tôi như dưới đây:
Cơ quan trung ương.
Bộ Tổng Tham Mưu với đầy đủ các cơ quan, binh chủng, và
binh sở trong hệ thống quản trị hành chánh, nhân
viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận.
Riêng ngành Tiếp Vận có khả năng sửa chữa và
tân trang toàn bộ quân dụng chung, do Lục Quân
Công Xưởng, các Căn Cứ 10 Quân Nhu, 40 Công
Binh, 50 Đạn Dược, 60 Truyền Tin, 90 Tồn Trữ Sửa Chữa Dù,
và các Trung Tâm Bảo Toàn, trách
nhiệm. Quân dụng chung là quân dụng thuc Lục
Quân quản trị, nhưng có trang bị trong Hải Quân
và Không Quân.
Lục Quân.
Chỉ huy, tác chiến, và yểm trợ tác chiến,
có:
- 4 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn và các đơn vị yểm
trợ trực thuộc.
- 11 Sư Đoàn Bộ Binh (Sư Đoàn 3 Bộ Binh thành lập
tháng 10.1971).
- 1 Sư Đoàn Nhảy Dù.
- 1 Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
- 1 Liên Đoàn Biệt Cách Nhảy Dù.
- Hơn 20 Liên Đoàn Biệt Động Quân.
- 4 Lữ Đoàn Kỵ Binh Thiết Giáp.
- Lực Lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ Thuật.
- Các đơn vị Pháo Binh biệt lập.
- Và lực lượng Địa Phương Quân Nghĩa Quân (chiếm 1/2
quân số).
Vào những ngày cuối
tháng 4.1975, Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân được
thành lập vi vã, bằng cách kết hợp 3 Liên
Đoàn của binh chủng này với đơn vị Thiết Giáp
và Pháo Binh. Sư Đoàn có nhiệm vụ tổ chức
tuyến phòng thủ Phú Lâm, cửa ngõ vào
thủ đô Sài Gòn từ hướng tây nam.
Không Quân.
Quân số hơn 60.000, tổ chức tổng quát gồm:
- 1 Bộ Tư Lệnh Quân Chủng với đầy đủ các cơ quan và
binh sở yểm trợ.
- 5 Sư Đoàn tác chiến.
- 1 Sư Đoàn vận tải.
- 1 Không Đoàn Tân Trang Chế Tạo.
Chỉ trong năm 1973, tiếp nhận hơn 900 phi cơ, gồm: 560 trực thăng, 230
khu trục, 100 vận tải, và các loại khác. Trong tổ
chức 6 Sư đoàn không quân, có số lượng
các phi đoàn như sau:
- 20 phi đoàn khu trục, trang bị khoảng 550 phi cơ A1H, A37,
và F5.
- 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1000 phi cơ UH1
và CH47.
- 8 phi đoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ O1, O2,
và U17.
- 9 phi đoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ. C7, C47, C119,
và C130.
- Và 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC119
(không rõ số lượng).
Ngoài ra còn có các Phi Đoàn Trắc
Giác (tình báo kỹ thuật), Phi Đoàn Quan
Sát RC119L, và Biệt Đoàn Đặc Vụ 314.
Hải Quân.
Cùng nhịp phát triển với quân chủng Lục Quân
và Không Quân, đầu năm 1969, Hải Quân
liên tiếp tiếp nhận tàu chiến của các Giang
Đoàn 91, 533, 534, 574, và 591 của Hải Quân Hoa Kỳ.
Với quân số hơn 40.000,
ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh,
nhân viên, huấn luyện, tiếp vận (có Hải Quân
Công Xưởng), Hải Quân tổ chức 3 lực lượng tác chiến:
- Thứ nhất. Hành Quân Lưu Động Sông, với 14 Giang
Đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh.
- Thứ hai. Hành Quân Lưu Động biển với 1 Hạm Đội trang bị
tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang
pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm, và
giang vận hạm.
- Thứ ba. các Lực Lượng Đặc Nhiệm 211 Thủy Bộ với 6 Giang
Đoàn, 212 Tuần Thám với 12 Giang Đoàn, 214 Trung
Ương với 6 Giang Đoàn, và Liên Đoàn Người
Nhái. (Tôi nhớ có Lực Lượng Đặc Nhiệm 213, nhưng
trên tài liệu thì không thấy)
*****
4. Tôi bị bức tử!
....... định mệnh đã đưa kẻ thù
của dân tộc đến trước mặt tôi (lúc quân đội
cộng sản bao quanh thủ đô Sài Gòn). Đó
là "một thanh niên" lớn hơn tôi 7 tuổi (quân
đội cộng sản thành lập năm 1945). Hắn được lãnh đạo bởi
một người (ông Hồ Chí Minh) khi sống trên đất
Pháp và đất Nga, đã cố tình thay đổi hệ
thần kinh với những "gen" hiền hòa đạo nghĩa của dân tộc
Việt trong đầu ông ta, bằng hệ thần kinh với những "gen" độc
tài tàn bạo thời Mông Cổ xâm lăng cai trị một
phần Âu-Á. Ngôn từ chính trị ngày nay
gọi đó là bản chất độc tài, ngoan cố, và
lừa dối. Dưới người đó là một nhóm thuộc hạ (bộ
chính trị cộng sản), thực hiện bản chất của ông ta, bản
chất của độc tài, và luôn luôn lừa dối ngay
cả bản thân họ, thì đâu có ai dưới quyền họ
mà tránh được. Vì vậy mà hắn bị ngập
chìm trong bản chất lừa dối một cách tinh vi của
nhóm người kia, để tưởng hắn là anh hùng cứu nước
cứu dân, và hắn trở nên hung hăng khát
máu.
Hắn sẳn sàng đánh
tôi ngay trong gian nhà chánh (thủ đô
Sài Gòn) của tôi. Tôi đã sẳn
sàng đánh lại hắn. Những cơ bắp có trách
nhiệm cung cấp thức ăn nước uống với súng đạn cho tôi
(ngành Tiếp Vận), đã dự trữ trong thủ đô và
vùng đồng bằng Cửu Long, đủ cho tôi đánh với hắn 60
ngày mới cần tiếp tế.
Lúc bấy giờ, có thể
có nhiều bạn chưa rõ lắm về sức mạnh của tôi. Xin
thưa rằng, tôi có đến :
- Hơn 2 triệu cánh tay (1 triệu quân).
- Gần 2 triệu khẩu súng cầm tay.
- 1.200 xe chạy xích, kể cả chiến xa M48.
- Hơn 1.000 khẩu đại bác từ 105 xe kéo đến 175 ly cơ động.
- 40.000 xe chạy bánh.
- 1.600 chiến hạm chiến đỉnh.
- Hơn 2.000 phi cơ.
Tôi có một hệ thống
quân trường, đào tạo từ anh chiến binh đến vị lãnh
đạo chỉ huy cấp Sư Đoàn Quân Đoàn, chuyên
viên các ngành chuyên môn, và
toàn bộ sĩ quan tham mưu. Tôi có 3 trung tâm
điện toán quản trị con người, quản trị quân dụng, quản trị
tài chánh. Tôi có một hệ thống quân y
bảo vệ sức khoẻ toàn quân.
Tôi đã đánh
và đánh thắng hắn nhiều trận lừng danh, đặc biệt
là Tết Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa
1972.
Vậy mà bây giờ, tôi
không được đánh hắn, vì "cha mẹ cũ" của tôi
là Tổng Thống Thiệu và Đại Tướng Viên đã cao
bay xa chạy rồi, còn "cha mới" của tôi là Tổng
Thống Minh, đã ra lệnh trên hệ thống truyền thanh
Sài Gòn, bảo tôi:
- Không được đánh hắn!
- Phải buông súng xuống!
- Phải giao súng đạn cho hắn!
Quí bạn nghĩ xem, còn
nỗi đau nào hơn nỗi đau của tôi nữa đây! Và
nỗi đau này đã chồng lên nỗi đau đang day dứt, bởi
một phần hệ thần kinh của tôi (những vị lãnh đạo, những vị
có quân có quyền trong tay) đã bỏ lại hằng
chục ngàn, hằng trăm ngàn, thậm chí hằng triệu tế
bào, để chạy khỏi quê hương trước khi hắn đến. Chừng như
chỉ có nhóm hệ thần kinh đó khôn ngoan hơn
nhóm hệ thần kinh còn lại, khôn ngoan hơn hằng
triệu quân nhân trong tình cảnh "rắn mất đầu" nhưng
vũ khí vẫn trong tay! Chắc quí bạn không ai
là không nhớ rằng, một số thần kinh chính (5 vị
Tướng và hằng trăm sĩ quan các cấp) trong nhóm hệ
thần kinh còn lại của tôi, đã tự cắt đứt cuộc sống
(tuẫn tiết) làm cho tôi vô cùng ngưỡng mộ
và cảm phục. Chính nhờ lòng dũng cảm cao cả
đó, giúp tôi khôi phục được lòng hảnh
diện của mình đối với những anh bạn đã một thời
giúp tôi ngăn chận kẻ cướp. Tôi không hổ thẹn
với tổ tiên, với hồn thiêng sông núi Việt Nam,
và nhất là không hổ thẹn với tất cả những tế
bào của tôi đã hi sinh trên khắp các
trận tuyến, từ quân sự, chính trị, đến kinh tế, văn
hoá xã hội. Nếu không, tôi sẽ tủi nhục biết
dường nào!! Và hành động đó, tiếp tục soi
sáng thêm dòng lịch sử oai hùng của tổ quốc,
tiếp tục nâng cao thêm tinh thần bất khuất của những anh
hùng dân tộc "thành mất chết theo thành".
Đó, chính là ánh sáng của
chính nghĩa quốc gia dân tộc mà chiến sĩ và
toàn dân, đã dốc lòng phụng sự, và sẽ
không bao giờ ngưng nghỉ nếu như dân tộc Việt Nam chưa được
sống trong một xã hội dân chủ pháp trị theo nguyện
vọng của mình.
Tôi là một thanh
niên 23 tuổi, nhưng tôi có một sức mạnh phi thường,
một tinh thần chiến đấu dũng cảm mà lâu nay hắn rất ngại
đánh nhau với tôi, trong khi hắn sẳn sàng chấp nhận
đánh nhau với anh bạn Mỹ cho dù anh bạn Mỹ rất mạnh về
hỏa lực, "chỉ vì anh bạn Mỹ hiểu hắn không bằng tôi
hiểu hắn". Nhưng mà, lệnh là lệnh!
Lệnh bắt tôi phải buông
súng!
Lệnh bắt tôi phải giao súng cho hắn, mà hắn
là kẻ thù của dân tộc! Ôi!........
Vậy là, tôi bị bức tử rồi các bạn ơi!
Tôi chết, nhưng những tế bào của tôi không thể
chết.
Lời cuối của tôi, là
các bạn hãy cùng nhau góp sức giải thể chế
độ độc tài cộng sản, để xây dựng một nước Việt Nam
dân chủ tự do, dân tộc được ấm no hạnh phúc
phù hợp với nguyện vọng của toàn dân, nhưng
không hành động trả thù, vì cuối
cùng, tất cả chúng ta đều là người Việt Nam. Nhưng
đói với tất cả thành viên Bộ chính trị từ
khoá đầu đến khóa đương nhiệm phải truy tố ra toà,
vì họ là những người có thẩm quyền hoạch định
và điều khiễn chính sách độc tài diệt
chủng, đẩy dân tộc vào thảm cảnh tàn khốc trong nửa
cuối thế kỷ 20.
Chúc quí bạn an
lành, thành công. Tôi sẽ luôn
luôn soi sáng cho .. quí ... bạn.
Vĩnh ... b.i..ệ...t....!!!
Houston,
mùa đông 2001
Trân trọng
cám ơn Tiến sĩ Nguyễn Đức Phương (Anh quốc), về một số
tài liệu sử dụng trong bài này.
Phạm Bá
Hoa (K5)
Xin mời đọc tiếp bài:
- Chân
Dung Người Lính Việt Nam Cộng Hòa
- Chân
Dung Những Người Vợ Lính Việt Nam Cộng Hòa
- Dù thế
nào Anh vẫn nhận ra Em
cùng một tác giả
Nguồn:http://www.dianhanhvanhoaquoste.org
Thiếu tướng Lê Minh Đảo và
sư đoàn 18 bộ binh:
cuộc chiến đấu cuối cùng ở Xuân Lộc
» Tác giả: Phạm Phong Dinh
1.
Phần 1
(Trích
trong Thiên Hùng Ca Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa)
Ba mươi năm, kể
từ ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa ngừng tồn tại, những
người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị buộc phải
buông súng một cách ngỡ ngàng, phải đi
vào những trại tù của phía được gọi là
“chiến thắng” một cách uất hận. Kể từ cái khoảnh khắc đau
thương đó, cho mãi đến tận hơn một phần tư thế kỷ sau,
những nhà viết sử cộng sản vẫn ra rả lăng mạ và sĩ nhục
những người lính tạm gọi là “bại trận” của QLVNCH, bằng
tất cả những phương tiện ma øcó thể giúp họ phun
nọc đầu độc thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam sau chiến tranh.
Truyền thông, sách báo, nhà văn (văn
nô “phản kháng” lẫn “phản tỉnh”), là những
công cụ cực tốt để làm cái loa tuyên truyền,
bôi nhọ và bóp méo lịch sử. Cộng vào
đó, phải kể đến một khối lượng cực nhiều sách báo
của thế giới phương Tây, qua lăng kính và
tài liệu của khối cộng, thân cộng, thiên cộng, phản
chiến và trở cờ, cũng tàn nhẫn tham gia vào
cái trò chơi nhục mạ một quân đội bị bức tử một
cách oan ức. Là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Quân lực ấy, và những người lính ấy chỉ có
mỗi một lỗi lầm duy nhất, là đã dám anh dũng đương
đầu với hai thế lực cực lớn để bảo vệ một nửa nước Việt Nam, mà
đã bị hai thế lực ấy chia cắt ngày 20.7.1954 tại hội nghị
Geneva. Sau ba mươi năm, người ta đã thấy rõ ràng,
là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải nỗ lực chống trả
đại khối cộng sản quốc tế mười ba nước, trong đó cộng sản
và quân đội Bắc Việt được dùng làm những
tên lính tiền phong xung sát, thực hiện sách
lược “Dùng người Việt giết người Việt” của đại khối ấy. Trong
ròng rã hơn hai mươi năm, từ năm 1954 đến năm 1975, những
người lính quá đỗi khổ ải của chúng ta không
những đem xương máu ngăn chống những cơn sóng bão
lửa của chiến tranh ngoài tiền tuyến, mà còn phải
đau đớn hứng chịu những nhát đâm chí mạng từ
phía sau lưng từ phía những người gọi là bạn
và bọn nội thù thân cộng, phản chiến và theo
cộng. Rồi khi đã gục ngã một cách không mong
muốn, thì những bầy quạ đen, những con kên kên từ
khắp mọi nẽo đường thế giới xúm nhau vào làm
cái việc an táng cuối cùng quân lực một thời
kiêu hùng ấy. Bằng những cái mỏ khoằm khoằm, từ
đó vang vọng những lời lăng mạ thật kinh tởm. Và bằng
những cái móng vuốt nhọn bén như dao, muốn
chôn vùi những chiến tích lừng lẫy của những người
lính chúng ta vĩnh viễn vào quá khứ . Nhưng
có phải là người lính Việt Nam Cộng Hòa
đã thực chết hay không? Và những người gọi
là “chiến thắng”, dành quyền sĩ nhục người bại trận,
có phải thực sự chiến thắng hay không?
Cộng sản
Hà Nội nên nhớ lại cơn ác mộng chiến bại Mùa
Hè Đỏ Lửa 1972 và cuộc không tập mười hai
ngày đêm trên lãnh thổ Bắc Việt trong
mùa Giáng Sinh cuối năm ấy. Ngày cuối cùng
cộng quân chỉ còn đúng sáu chiếc hỏa tiễn
Sam, lãnh đạo Hà Nội với những anh Ba anh Tư, và
những ông tướng huyền thoại đang chuẩn bị trói mình
đầu hàng vô điều kiện. Thì người ta đã dễ
dàng dành cho họ một con đường sống bằng Hiệp Định Paris
ký với nhau ngày 27.1.1973. Như vậy, chỉ trong
vòng có mười hai ngày thôi, quân đội
Hoa Kỳ đã có thể nhanh chóng tống táng chế
độ cộng sản cùng hung cực ác Hà Nội xuống tận
đáy địa ngục nếu muốn. Thì có vinh dự gì
mà bọn cộng sản Bắc Việt còn có can đảm vỗ ngực
chiến thắng và nguyền rủa những người lính Việt Nam Cộng
Hòa kém may mắn. Cái “chiến thắng” mà
chúng cứ ra rả ngày đêm chưa thấy mỏi mệt, thực
chất chỉ là một màn trình diễn của những con người
chiến bại tinh thần, luôn luôn cảm thấy xấu hổ và
mặc cảm thua kém mọi bề từ tận đáy thâm tâm
của họ. Nhưng dù sao thì sau ba mươi năm, gió cũng
đã đổi chiều. Bên cạnh hàng ngàn cuốn
sách mà chúng ta vừa nhắc đến ở trên,
đã xuất hiện ngày càng nhiều những cuốn
sách mới được viết từ những sử gia Tây phương, với
cái nhìn vô tư hơn và ít thiên
kiến hơn để thẩm định lại những sự thực lịch sử trong cuộc chiến tranh
Việt Nam. Nhờ vào những tài liệu khổng lồ đã được
giải mật trong các văn khố của Hoa Kỳ, cũng như của Nga,
mà trước năm 1990 là Liên Xô, những
nhà viết sử đã được đi thẳng, hay nói thật
đúng là đã bới móc sâu vào tận
cùng những bí mật hiểm hóc nhất, để trưng ra cho
công luận thế giới những khía cạnh đứng đắn nhất của lịch
sử. Những sử gia Hoa Kỳ, mà trong những thập niên trước
đây đã cho ấn hành những cuốn sách đầy dẫy
thiên kiến, lệch lạc, chưa nói đến sự ấu trĩ. Có lẽ
là vì lúc đó người ta cần phải bào
chữa cho những điều mà chính phủ của họ đã theo
đuổi. Hoặc biện hộ cho sự nhượng bộ khối cộng. Hay tàn nhẫn hơn,
trút mọi lỗi lầm và sự hèn nhát của họ
vào một đối tượng tế thần là nước Việt Nam Cộng
Hòa. Nhưng dần dần rồi cũng có những sử gia có
lương tâm và tỉnh táo hơn, đã tận tụy
tìm kiếm tài liệu từ cả hai phía, đã
phân tích và gạt ra ngoài những định kiến,
chỉ chắt lọc những dữ kiện. Từ những dữ kiện đó, chúng đủ
nói lên được nhiều điều chưa từng được nói.
Từ những
ký ức đau buồn của một lần gọi là bại trận của một người
lính, từ những hoài cảm về những trang chiến sử
chói lọi của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
chúng tôi đã may mắn nhận được vài chục
trang biên khảo của sử gia Hoa Kỳ, ông George Jay Veith
viết về Sư Đoàn 18 Bộ Binh và Thiếu Tướng Lê Minh
Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn trong cuộc chiến đấu cuối cùng
tháng 4.1975 mà ông đã đặt tựa là
“Fighting is an Art: The ARVN Defense of Xuan Loc, April 9- 21, 1975”
(Chiến Đấu Là Một Nghệ Thuật: Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa Phòng Thủ Xuân Lộc, từ 9 - 21.4.1975). Sử gia
Jay Veith đã không gặp phải khó khăn lắm trong vấn
đề nghiên cứu các tài liệu viết bằng tiếng Việt từ
hai phía, vì nhờ có một sử gia Hoa Kỳ cộng
tác, ông Merla L. Pribbenow, rất thông thạo Việt
ngữ. Ông Pribbenow là một nhân viên Tòa
Đại sứ Hoa Kỳ từ năm 1970 đến năm 1975, từng dịch sang Anh ngữ nhiều
tài liệu và sách Việt ngữ viết về chiến tranh Việt
Nam. Trong thư mục tham khảo nguồn tài liệu hay trực tiếp phỏng
vấn phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi ghi
nhận các tác giả: Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung
Tướng Nguyễn Văn Toàn, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Chuẩn
Tướng Trần Quang Khôi, Đại Tá Hứa Yến Lến, Phạm Huấn, Hồ
Đinh, Nguyễn Đức Phương và Phạm Phong Dinh. Về phía nguồn
tài liệu Bắc Việt, hầu hết các nhân vật cao cấp
từng viết sách về chiến tranh Việt Nam như Võ
Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà,
Hoàng Cầm, Đào Đình Luyện, Nam Hà, v.v...
Trong bài
biên khảo khá dài này, sử gia Jay Veith
đã diễn tả lại rất tỉ mỉ những chuẩn bị chiến tranh từ hai
phía. Một bên là Quân Đoàn 4 Cộng Sản
Bắc Việt, với các Sư Đoàn 6, 7 và 341 dưới quyền
chỉ huy của Thiếu Tướng Hoàng Cầm, một danh tướng của cộng
quân, với sự giám sát và hỗ trợ của Tướng
Trần Văn Trà, Tư Lệnh Lực Lượng Quân Giải Phóng
Miền Nam, thuộc Trung Ương Cục Miền Nam. Cấp cao hơn nữa là Bộ
Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn Huệ (trong tháng 4.1975 đổi
thành chiến dịch Hồ Chí Minh) do Tướng Văn Tiến Dũng chỉ
huy. Rồi cao hơn hết là Bộ Chính Trị tại Hà Nội do
“anh Ba” Lê Duẫn chỉ đạo nghệ thuật. Một bên là Sư
Đoàn 18 Bộ Binh thiếu thốn quân số vì những trận
đánh liên miên từ đầu năm 1975, với Thiếu Tướng Tư
Lệnh Lê Minh Đảo cùng các đơn vị tăng phái
như Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của Đại Tá Nguyễn Văn Đỉnh;
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Long Khánh dưới
quyền của Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc, Tiểu
Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long
mới vừa từ tỉnh Quảng Đức băng rừng về đến. Cấp chỉ huy trực tiếp của
Thiếu Tướng Đảo là Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh
Quân Đoàn III & Quân Khu III, sau khi đồng
ý trả Trung Đoàn 48 của Trung Tá Tá Trần
Minh Công từ Tây Ninh về cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh,
thì ông đã phải rất bận rộn với những điều động
và bố trí khác, đã mặc nhiên giao
phó mặt trận Long Khánh cho Thiếu Tướng Đảo. Cấp chỉ huy
cao hơn nữa là Bộ Tổng Tham Mưu thì cũng đang bù
đầu tái tổ chức các đơn vị di tản từ Quân Khu I
và Quân Khu II về. Vị Tổng Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH
là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng chẳng ra một lệnh cần thiết
nào cho Thiếu Tướng Đảo.
Như vậy, ở cương
vị Tư Lệnh Sư Đoàn, Thiếu Tướng Đảo đã gánh
vác sức nặng của cuộc chiến cuối cùng, đương đầu với một
quân đoàn hùng hổ quân cộng cùng một
hệ thống chỉ huy chằng chịt và hung hãn. Thiếu Tướng Đảo
đã nói với ông Jay Veith: ”Tướng Toàn đang
rất bận rộn tổ chức phòng thủ Sài Gòn, trông
cậy tôi lo liệu chuyện Sư Đoàn 18 Bộ Binh và khu
vực trách nhiệm. Tôi không nhận được lệnh nào
từ Tổng Thống Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu trong việc phòng
thủ Xuân Lộc. Đối với tôi thì chuyện này cũng
dễ hiểu, vì tính linh động mềm dẽo của QLVNCH, trong khi
phía cộng sản, không một cá nhân nào
có thể thực hiện mọi quyết định tự ý được”. Điều
mà Jay Veith muốn nhấn mạnh ở đây là nghệ thuật
phối trí và chỉ huy chiến trận của cả hai phía.
Một phía là những tập hợp gọi là “đỉnh cao của
trí tuệ”. Còn một phía, chỉ duy nhất một danh
tướng của VNCH là Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Một cuộc đọ sức
đọ trí giữa các cấp chỉ huy cộng quân và cấp
chỉ huy một sư đoàn QLVNCH trong vòng mười hai
ngày đêm, mà chiến thắng vang dội của phía
số ít đã làm rúng động thế giới và
làm cho các quân đoàn cộng quân phải
xáo trộn, Tướng Hoàng Cầm bị thay thế bằng chính
Tướng Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam Trần Văn
Trà. Rồi Trần Văn Trà cũng chẳng làm nên
được cơm cháo gì, buộc phải rời bỏ chiến trường
Xuân Lộc đi vòng xuống Biên Hòa tiến
đánh Sài gòn. Như vậy có vinh quang
gì không, khi tướng lãnh cộng sản viết sách
ngợi ca chiến thắng (giả tạo và được người Mỹ ban tặng).
Trong những
ngày Quân Đoàn I và Quân Đoàn
II di tản về miền duyên hải và cố gắng tìm về khu
vực Quân Khu III, thì các Sư Đoàn 5, 18
và 25 của Quân Đoàn III đã có những
trận đánh với cộng quân và chịu nhiều thiệt hại.
Nhưng những trận đánh này đã rất mờ nhạt trong
những tin tức chiến sự hàng ngày, vì hậu phương
và giới truyền thông báo chí đang chú
tâm theo dõi cuộc di tản của quân dân từ miền
cao nguyên và miền Trung vào. Cho nên khi mặt
trận Long Khánh nổ lớn tại thành phố Xuân Lộc,
thì người ta mới lại chú ý đến Sư Đoàn 18
Bộ Binh. Người ta không được biết rằng, quân số của sư
đoàn đã sụt xuống mức báo động. Nhiều tiểu
đoàn quân số 450 người, khi trận Xuân Lộc bắt đầu,
chỉ có không quá 350 chiến binh. Một tiểu
đoàn gồm bốn đại đội, mỗi đại đội quân số đầy đủ phải
trên 150 người. Giờ đây mỗi đại đội chỉ có
không quá 100 chiến binh, nhưng phải cáng
cáng công việc gấp rưỡi. Có nghĩa là người
lính QLVNCH phải đổ máu xương gấp rưỡi để giữ vững
Xuân Lộc. Nếu diễn tả lại diễn tiến trận đánh kéo
dài từ những ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh giao chiến
với các Sư Đoàn 6 và 7 BV trong lãnh thổ
tỉnh Long Khánh cho đến ngày nổ ra trận Xuân Lộc từ
ngày 9.4.1975 thì có lẽ phải cần một cuốn
sách dày vài trăm trang. Chúng tôi
chỉ xin được lược diễn lại những giai đoạn quan trọng nhất và
xin được chú trọng vào những diễn biến nổi bật, cũng như
những con người và những yếu tố làm nên
thành chiến thắng Xuân Lộc.
Cấp chỉ huy
chiến trường của quân cộng
Để biết Thiếu
Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã
đánh cho bọn tướng tá Hà Nội thua xiểng liểng đến
như thế nào, chúng ta hãy cùng điểm một
vài khuôn mặt cấp chỉ huy của địch quân trực tiếp
hay gián tiếp trong trận đánh Xuân Lộc. Người chịu
trách nhiệm mặt trận Long Khánh là Thiếu Tướng
Hoàng Cầm. Tướng Cầm, bí danh Nam Thạch, từng tham dự
trận Điện Biên Phủ năm 1954, lúc đó ông
làm Tiểu Đoàn Trưởng, trực thuộc trung đoàn
mà đã xông vào trung tâm và bắt
sống được tướng Tư Lệnh De Castries. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam,
Tướng Cầm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 312 nổi tiếng thiện chiến,
rồi được điều làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bắc Việt, khi sư
đoàn này thành lập ngày 2.9.1965. Trong
mùa hè 1973, Tướng Cầm được đề bạt lên làm
Tham Mưu Trưởng Trung Ương Cục Miền Nam, và chức vụ cuối
cùng là Tư Lệnh Quân Đoàn 4 cộng sản BV nhận
lệnh tấn công Xuân Lộc để mở toang cánh cửa tiến
xuống Sài Gòn. Quân Đoàn 4 của Tướng
Hoàng Cầm gồm các Sư Đoàn 6, 7 và 341.
Sư Đoàn
341 là một trong những sư đoàn non tuổi đời nhất so với
các sư đoàn kỳ cựu như Sư Đoàn 2, 3, 304, 308,
324, 325, v.v.. Đại Tá Trần Văn Trấn được gọi nắm sư đoàn
cuối năm 1973. Trước đó Trấn làm Tư Lệnh Sư Đoàn
1BV và bị quân ta bắt làm tù binh trong năm
1970. Trấn đã khôn khéo dấu tung tích, chỉ
khai là nhân viên quân y. Khi Hiệp Định Paris
ký kết, hai bên trao trả tù binh, Trấn trở về Bắc
và nhanh chóng được giao cho nắm Sư Đoàn 341.
Thông thường thì một cán bộ tù binh được trả
về Bắc, rất có nhiều triển vọng được các đồng chí
Hà Nội cho vô nằm nhà đá đếm lịch, nhưng
trường hợp của Trấn lại là ngoại lệ. Tháng 2.1975, Đại
Tá Trấn nhận lệnh đưa SĐ 341 vào Nam. Binh đội sư
đoàn được 500 chiếc xe vận tải theo đường Hồ Chí Minh
vào đến khu vực Quân Khu 7 của cộng quân, bao gồm
hầu hết lãnh thổ Quân Khu III của Việt Nam Cộng
Hòa. Ở đây, Đại Tá Trấn cùng ban tham mưu
của ông ta được lệnh điều nghiên chiến trường Long
Khánh, đặc biệt thám sát địa thế thành phố
Xuân Lộc, để chờ Sư Đoàn 7 CSBV từ miền Lâm Đồng đổ
xuống làm nỗ lực chính cường tập.
Viên phụ
tá Tư Lệnh Mặt Trận Long Khánh là Tướng Bùi
Cát Vũ chịu trách nhiệm các kế hoạch hành
quân của Sư Đoàn 7 Cộng sản Bắc Việt. Tư Lệnh sư
đoàn là Lê Nam Phong, biệt danh “Nam Lửa” (Fiery
Nam), vì tính khí nóng nảy, người gốc Nghệ
An. Sư Đoàn 7 Bắc Việt là một sư đoàn cứng của
cộng quân, từng tham dự những trận đánh lớn ở An Lộc,
Phước Long. Cho nên nó được chọn làm nỗ lực
chính công phá chiến tuyến Xuân Lộc của Thiếu
Tướng Lê Minh Đảo. Sau khi tỉnh Ban Mê Thuột của Quân
Khu II rơi vào tay địch quân trong đầu tháng
3.1975, thì Tướng Hoàng Cầm đề nghị cho quân
đoàn của ông ta đánh tràn xuống Quân
Khu III của Việt Nam Cộng Hòa, với sự hỗ trợ của Tư Lệnh
Quân Giải Phóng Trần Văn Trà. Nhưng Lê Duẫn,
tán đồng ý kiến của Tướng Văn Tiến Dũng, đã ra
lệnh cho Sư Đoàn 7 hành quân lên đánh
chiếm tỉnh Lâm Đồng, chờ các quân đoàn
khác đánh chiếm miền duyên hải Quân Khu II,
rồi cùng vào đánh Xuân Lộc. Nhưng sau
này, khi Lê Duẫn nhận thấy tình hình
quá suy sụp của VNCH, liền lệnh cho Phạm Hùng, Ủy
Viên Chính Trị Trung Ương Cục Miền Nam lợi dụng sự hỗn
loạn ấy để đánh xuống phía Nam. Vì vậy Sư
Đoàn 7 Bắc Việt đang hành quân lên Lâm
Đồng nhận lệnh trở xuống Long Khánh. Sư Đoàn 6 cộng
quân hình thành từ tháng 8.1974, là
sư đoàn nhẹ chỉ có hai trung đoàn được cấu
thành từ các đơn vị độc lập trong Quân Khu 7, hoạt
động trong quân khu. Tướng Tư Lệnh là Đặng Ngọc Sĩ, từng
làm Tư Lệnh Sư Đoàn Đặc Công 27.
Những trận
đánh đầu năm 1975
Các đơn
vị của Sư Đoàn 6 và 7 cộng quân đã từng giao
tranh ác liệt với Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Địa Phương
Quân & Nghĩa Quân trong khu vực Long Khánh,
trong lúc quân dân Quân Khu I và II
đang ùn ùn đổ về Quân Khu III, và trước khi
nổ ra chiến cuộc Xuân Lộc. Một buổi họp quan trọng giữa Tướng
Bùi Cát Vũ, Tướng Lê Đức Anh, Tư Lệnh Phó B2
(Cao Nguyên) và Tướng Lê Nam Phong, Sư Đoàn 7
BV được giao trách nhiệm đánh thông Quốc Lộ 20 từ
hướng Bắc quận Túc Trưng đến Phương Lâm. Để làm
được điều này, Tướng Nam Lửa phải đánh chiếm cho được
quận Định Quán và tiêu diệt Chi Khu. Ngày
17.3.1975 tiếng súng của giặc bắt đầu nổ rền trời Định
Quán. Quân cộng đụng phải chiến tuyến rất cứng của
các chiến sĩ Địa Phương Quân & Nghĩa Quân trong
Chi Khu, với hỗ trợ vòng ngoài của Tiểu Đoàn 2,
Trung Đoàn 43, thuộc SĐ18BB, dưới quyền chỉ huy của Thiếu
Tá Nguyễn Hữu Chế. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã cẩn
thận gửi tiểu đoàn thiện chiến nhất của ông lên giữ
con lộ 20 huyết mạch này. Các chiến sĩ Đại Đội 377 Địa
Phương Quân, dù quân số và vũ khí ở
thế hạ phong, vì quân giặc quá đông cộng với
chiến xa yễm trợ, nhưng đã anh dũng giữ vững được cao điểm bảo
vệ Chi Khu trong vòng hai ngày. Chiến sĩ Tiểu Đoàn
2/43 cũng bận rộn chống trả những làn sóng tấn công
điên cuồng của địch, nhưng cuối cùng buộc phải rút
về một cụm đồi không cao lắm ở hướng tây, cách thị
trấn lối vài cây số, một điểm cao nhìn xuống con
sông La Ngà. Trung Đoàn 209 BV tiếp tục tấn
kích Tiểu Đoàn 2/43. Thiếu Tá Chế cùng
chiến hữu giữ vững cao điểm dưới áp lực rất nặng của quân
cộng. Thiếu Tá Chế cho hai khẩu pháo 105 ly chúc
mũi bắn trực xạ bằng đầu đạn Beehive chống biển người. Trong
vòng vây trùng điệp của giặc, tiểu đoàn hao
mòn dần.
Vận rủi lại
giáng thêm một đòn chí mạng lên chiến
sĩ SĐ18BB, khi một chiếc F-5 ném bom lầm lên đầu
quân ta. Con số thương vong của tiểu đoàn qua những
ngày giao tranh đã lên đến 80 người, Thiếu
Tá Chế nghiến răng quyết không nhường một tấc đất cho giặc
dù ông có hy sinh trên cao điểm này,
nhưng Thiếu Tướng Đảo đã lệnh cho Thiếu Tá Chế dẫn
quân về Núi Thị, cao điểm bảo vệ phía Tây
Xuân Lộc. Trung Đoàn 209 BV thúc quân
đánh tới cầu La Ngà. Thiếu Tá Lầu Vĩnh Quay, chỉ
huy Địa Phương Quân gọi pháo binh bắn ngay lên vị
trí của ông, giết chết nhiều địch quân, nhưng chiếc
cầu La Ngà vẫn lọt vào tay địch. Gần như cùng thời
điểm đó, Tiểu Đoàn 3/43 của quân ta trấn giữ quận
Hoài Đức bảo vệ Tỉnh Lộ 303 trong tỉnh Bình Tuy cũng bị
quân cộng bức thoái. Trong tình hình khẩn
trương đó, với Trung Đoàn 48 còn đang hành
quân ở Tây Ninh, Trung Đoàn 52 không thể rời
khỏi Xuân Lộc, nhận thấy quân ta bị căng mỏng quá
mức, Thiếu Tướng Đảo quyết định gọi hai Tiểu Đoàn 1/43 và
4/43 rút quân về bảo vệ Xuân Lộc. Như vậy phần
phía Bắc của tỉnh Long Khánh đã lọt vào tay
giặc. Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ ngày Thiếu Tướng Đảo về
làm Tư Lệnh tháng 4.1972, là một trong hai lực
lượng cơ động của Quân Đoàn III (cùng với Lữ
Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi) Đông
xông Tây đụt, Nam bình Bắc phạt trong phạm vi những
tỉnh Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Tây Ninh
và tăng viện liên miên cho các sư đoàn
bạn. Sức người chiến sĩ có hạn mà cường độ chiến tranh
ngày càng nóng đỏ, đến sắt thép cũng phải
chảy mềm. Hầu hết các sử gia Hoa Kỳ và phương Tây
không hiểu, không biết hoặc không muốn biết người
lính QLVNCH đã chiến đấu đến tận cùng khổ ải như
thế nào. Thiên kiến trong sách của họ là,
quân ta “nhởn nhơ” trong lúc quân Mỹ thiệt mất đến
58.000 người. Hình như họ không dám đưa ra con số
250.000 chiến sĩ QLVNCH tử trận và trên nửa triệu chiến sĩ
thương phế, để biện minh cho sự tháo chạy của người Mỹ.
Ít nhất thì sử gia Jay Veith đã dành những
hàng trân trọng ngợi ca người lính của chúng
ta và dành cho các anh một chỗ đứng xứng
đáng trong lịch sử.
Song song với
hoạt động của Sư Đoàn 7 Bắc Việt, Sư Đoàn 6 BV cũng tấn
công các vị trí khác của quân ta dọc
theo khu vực Liên Tỉnh Lộ 2 dẫn về phía Nam đến Bà
Rịa, đồng thời tấn chiếm các đồn Địa Phương Quân &
Nghĩa Quân tại Ngã Ba Ông Đồn và Gia Ray. Vị
trí ĐPQ trên Núi Chứa Chan sau hai ngày
chiến đấu khốc liệt cũng chịu rút bỏ. Sư Đoàn 6 Bắc Việt
tiếp tục áp lực một khu vực dài 50 cây số
phía Đông Xuân Lộc theo Quốc Lộ 1 về Bình
Tuy. Như vậy, ý đồ của Tướng Hoàng Cầm là cô
lập Xuân Lộc với cao nguyên từ hướng Quốc Lộ 20, với tiếp
vận và tăng viện từ Sài Gòn trên Quốc Lộ 1 ở
phía Nam, và với miền duyên hải Quân Khu II
cũng trên QL1 ở phía Đông. Đến ngày
28.3.1975, Sư Đoàn 7 cộng quân quặt lên hướng Bắc
tấn công tỉnh Lâm Đồng. Sai lầm chiến thuật này
đã buộc quân địch phải trả một cái giá, sau
những ngày tháng 3.1975 thắng lợi. Thiếu Tướng Đảo lệnh
cho Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 52, dưới quyền của Đại
Úy Huỳnh Văn Út và Đại Đội 52 Trinh Sát tấn
công và tái chiếm được Núi Chứa Chan. Khi
quân của Đại Úy Út tiến đánh một địa danh
gọi là Ngã Ba Cua Heo gây thiệt hại rất nặng cho
các đơn vị của Trung Đoàn 270, thuộc Sư Đoàn
341BV, thì dân chúng vùng Kiệm Tân
hân hoan đem tặng chiến sĩ SĐ18BB hai con bò và
200.000 đồng để khao quân. Khi nhận được tù binh gửi về,
Thiếu Tướng Đảo hết sức sững sốt nhìn những người bộ đội với
khuôn mặt sợ hãi, non choẹt ở tuổi thiếu niên. Họ
chỉ trong độ tuổi 16, 17, là những học sinh bị bắt vào
quân đội huấn luyện qua loa trong vòng hai tuần lễ rồi bị
dồn vào Sư Đoàn 341. Qua hai mươi năm chiến tranh, bọn
lãnh đạo cùng hung cực ác Hà Nội đã
vét tới những người thiếu niên cuối cùng
ngoài miền Bắc ném vào lò lửa miền Nam, để
thỏa mãn tham vọng điên rồ, là làm cho
máu dân tộc chảy láng lênh thành cả
một đại dương thãm sầu, xương trắng chất chồng cao dầy như
dãy Trường Sơn. Tiếng kêu khóc hai miền vang vọng
lên đến chín cõi trời, đến quỷ thần cũng phải
rùng mình.
2.
Phần 2
|
|
Thiếu Tướng
Lê Minh Đảo cố gắng tái chiếm lại những cao điểm chung
quanh Xuân Lộc. Ông biết sớm muộn gì rồi thì
Xuân Lộc cũng là một bãi chiến trường lớn, rất lớn,
quyết định số phận của Việt Nam Cộng Hòa. Gánh nặng của
cuộc chiến tranh hai mươi năm bây giờ đang đè nặng
lên vai ông, một trong nhũng cây cột trụ cuối
cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Với sự ra đi
của Sư Đoàn 7 BV, Sư Đoàn 18 Bộ Binh của chúng ta
có được những khoảnh khắc quí báu để tái tổ
chức, bổ sung quân số và tái trang bị cho một cuộc
thư hùng mà sẽ rất đẫm máu. Bộ Chính Trị
cộng sản nhận định đã đến lúc giáng một đòn
quyết định đánh gục Việt Nam Cộng Hòa. Bại tướng
Võ Nguyên Giáp trong hai cuộc chiến Mậu Thân
1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 làm báo
cáo gửi lên Lê Duẫn, Tổng Bí Thư Đảng Cộng
Sản với những nhận xét của ông ta như sau: “Vì sự
chiến đấu “yếu kém”, sự thiệt hại nặng nề và tinh thần
suy sụp của QLVNCH, thay vì chờ đợi sự tập hợp các
quân đoàn, một cuộc cường kích của B 2 (tức
các đơn vị cao nguyên) sẽ hủy diệt được Thiệu. Khi
quân đội VNCH “sợ hãi” bỏ chạy, thì các đơn
vị đặc công và cảm tử đã đột nhập được vào
Sài Gòn, sẽ dậy lên một cuộc “tổng... nổi dậy”, kết
hợp với các lực lượng bên ngoài đánh
vào”. Dường như ông Giáp vẫn chưa học được
bài học và cơn ác mộng “tổng nổi dậy” của
ông ta. Ông ta cứ mơ tưởng ngày đêm một cuộc
tổng nổi dậy hoang tưởng, ít nhất hai lần đã chôn
vùi tên tuổi huyền thoại của mình trong năm 1968
và 1972. Khi dân chúng miền Nam không chịu
tổng nổi dậy với binh đội miền Bắc, thì Giáp đã ra
lệnh cho quân ông ta dội pháo làm cho nhiều
chục ngàn dân chúng các thành thị năm
1968 và người dân ba tỉnh Quảng Trị, Kontum, An Lộc năm
1972 phải tổng... nằm xuống vĩnh viễn một cách oan khuất.
Thiếu Tướng
Hoàng Cầm trong ngày 3.4.1975 trở lại bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn 4 Bắc Việt đóng về phía
Đông-Nam cầu La Ngà bắt đầu chiến dịch Xuân Lộc. Sư
Đoàn 7 BV đang hành quân trên QL20 tiến về
Đà Lạt nhận lệnh quày trở lại. Sư Đoàn 341 chịu
trách nhiệm mở những cuộc thám sát địa hình
địa vật. Sư Trưởng 341 (cách gọi Tư Lệnh sư đoàn của
phía cộng) Trần Văn Trấn, Sư Phó, các Trung
Đoàn Trưởng vượt sông La Ngà gặp các
cán binh địa phương nhờ dẫn đường. Ngày 5.4.1975,
công cuộc nghiên cứu địa thế, binh tình Sư
Đoàn 18 Bộ Binh và Tiểu Khu Long Khánh kết
thúc, trong đó, theo quân sử phía cộng
thì chỉ huy trinh sát là Lê Anh Thiện
đã đột nhập vào đến chỗ cư ngụ của Tỉnh Trưởng Long
Khánh, Đại Tá Phạm Văn Phúc. Ngày 6.4.1975
Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 341BV gửi phúc trình và
kế hoạch tấn công. Quân Đoàn 4 Bắc Việt chấp nhận.
Trận thế chiến tranh hình thành như sau: Trung
Đoàn 266 sẽ đánh chiếm các mục tiêu trong
thành phố. Trung Đoàn 270 tấn kích Gia Tân
(vùng Kiệm Tân) và Núi Thị, mà
trên đó trấn đóng một tiểu đoàn Pháo
Binh của SĐ18BB, một trung tâm Truyền Tin và Tiểu
Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Trung Đoàn
273 BV làm lực lượng trừ bị, trong khi đó Trung
Đoàn Pháo Binh 55 BV phụ trách yễm trợ hỏa lực,
Tiểu Đoàn Phòng Không 12 trách nhiệm khống
chế vùng trời. Hai Trung Đoàn 33 và 274 của Sư
Đoàn 6 BV sẽ bao vây Xuân Lộc ở phía Nam
và chận đánh quân ta ở Ngã Ba Dầu Giây
trên Quốc Lộ 1. Sư Đoàn 7 BV làm nỗ lực
chính nhận lệnh đánh hủy diệt Trung Đoàn 48 của
Đại Tá Trần Minh Công, Sư Đoàn 18 Bộ Binh, từ
đó chiếm lấy khu vực Tân Phong ở mặt Nam Xuân Lộc.
Tuy nhiên sau đó kế hoạch thay đổi. Trung Đoàn 165
của SĐ 7BV sẽ đánh các đơn vị hậu cứ và Bộ Tư Lệnh
của SĐ18BB, cũng như chiến tuyến phía Đông-Bắc Xuân
Lộc do Trung Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng trấn
giữ. Trung Đoàn 209 Bắc Việt phải đánh chiếm con đường QL
1 từ Suối Cát đến Tân Phong, và Trung Đoàn
141 BV làm trừ bị. Như vậy trận thế bao vây và tấn
công của Quân Đoàn 4 địch đã hình
thành, giống như cái miệng túi đang dần thắt chặt
lại. Chúng ta hãy xem Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư
Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ vạch kế hoạch chiến đấu và
phòng thủ ở Xuân Lộc như thế nào, mà sử gia
Mỹ Jay Veith đã gọi đó là một nghệ thuật.
Nghệ thuật bố
trí trận liệt của Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Trong lúc
Hoàng Cầm đang ráo riết chuẩn bị kế hoạch đánh
Xuân Lộc, thì Thiếu Tướng Đảo và Bộ Tư Lệnh của
ông cũng rất bận rộn thiết trí trận liệt phòng thủ
những cao điểm, yếu điểm chung quanh Xuân Lộc và thị
xã Xuân Lộc. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo sinh
ngày 5.3.1933 tại Sài Gòn, nhưng các cụ
thân sinh thì gốc gác ở tỉnh Long An. Tốt nghiệp
Khóa 10 Trường Võ Vị Quốc Gia Đà Lạt khi ông
vừa đúng hai mươi tuổi. Là một chiến sĩ rất dũng cảm,
chẳng mấy chốc mà số lượng huy chương tưởng thưởng cho ông
đã đầy hết ngực áo. Nhưng với bản tính khiêm
tốn, hiếm khi người ta thấy ông đeo những chiếc huy chương
đó. Thiếu Tướng Đảo là một trong những vị tướng đi
lên chức vụ của mình bằng những chiến công
ngoài chiến trường. Ông đã từng đảm nhiệm nhiều
chức vụ quan trọng trong quân đội, từng làm Tỉnh Trưởng
Chương Thiện và Định Tường. Đỉnh cao nhất trong đời quân
ngũ của ông khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ
Binh từ tháng 4.1972, vinh thăng Chuẩn Tướng tháng
11.1972 . Ngày 23.4.1975, Tổng Thống Trần Văn Hương gắn Bảo Quốc
Huân Chương và vinh thăng ông lên Thiếu Tướng.
Thiếu Tướng Đảo nổi tiếng là một vị Tướng thanh liêm, cần
mẫn, năng động, kiên quyết và trí dũng song
toàn. Sĩ quan và binh sĩ dưới quyền rất thương mến vị Tư
Lệnh của họ, vì Thiếu Tướng Đảo luôn quan tâm chăm
sóc đời sống thuộc cấp và gia đình họ. Ông
luôn có mặt ở những vị trí tiền tuyến của sư
đoàn để nâng cao tinh thần chiến binh. Nguyên tắc
làm việc của ông mà ông đòi hỏi
các cộng sự viên phải tuân thủ là liên
lạc xuống dưới ít nhất hai cấp. Thí dụ, một Trung
Đoàn Trưởng phải nắm được tình hình tận cấp Đại
Đội, hay thấp hơn nữa. Với hệ thống làm việc sát
cánh này, tinh thần binh sĩ lên rất cao, vì
lúc nào họ cũng nghe thấy cấp trên đang có
mặt bên cạnh. Họ đền đáp sự quan tâm ấy bằng những
chiến thắng vang dội và lòng trung thành tuyệt
đối.
Phụ tá
cho Tư lệnh là một giàn sĩ quan xuất sắc. Đại Tá
Hứa Yến Lến, Tham Mưu Phó kiêm Tham Mưu Trưởng/Hành
Quân/SĐ18BB, cánh tay phải của Thiếu Tướng Đảo,
cùng chia xẻ gánh nặng chiến cuộc trong những ngày
tàn khốc. Đại Tá Lến trong suốt đêm 20.4.1975 triệt
thoái ra khỏi Xuân Lộc đã đảm nhận trọng
trách bảo toàn đoàn cơ giới cồng kềnh của Sư
Đoàn, trong đó có hai khẩu đại bác 175 ly
của Quân Đoàn III, và ông đã đem
toàn bộ đoàn cơ giới ấy nguyện vẹn về được căn cứ Long
Bình, Biên Hòa. Trấn đóng ở những điểm trọng
yếu bảo vệ Xuân Lộc, là những cấp chỉ huy trẻ tài
giỏi của QLVNCH, với Đại Tá Lê Xuân Hiếu, Trung
Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43; Trung Tá Trần Minh
Công, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 48 và Đại
Tá Ngô Kỳ Dũng, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn
52. Thiếu Tướng Đảo đặc biệt để ý nâng đỡ các sĩ
quan cấp thấp và trao gắn cấp bậc vinh thăng lên nắm những
tiểu đoàn. Với giàn sĩ quan trung đoàn, tiểu
đoàn đầy tài năng, Thiếu Tướng Đảo có thể
yên tâm nghênh chiến quân cộng. Vị chỉ huy lực
lượng Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh
cùng hợp tác phòng thủ Xuân Lộc là
Đại Tá Phạm Văn Phúc. Đại Tá Phúc xuất
thân từ binh chủng Biệt Động Quân, nổi tiếng là một
sĩ quan xuất sắc và rất dũng cảm. Ông được điều về
làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Long Khánh từ
ngày 1.4.1975. Một thời điểm đã quá muộn để
ông có thể chấn chỉnh nâng cao tinh thần và
khả năng chiến đấu của các chiến sĩ diện địa. Vị tỉnh trưởng
tiền nhiệm đã không chăm sóc đúng mức đời
sống binh sĩ và tìm hiểu tâm tư cùng
giúp đỡ ít nhiều gia đình của họ. Nhưng được chiến
đấu dưới quyền của một Đại Tá Mũ Nâu trẻ, tận tụy trong
tinh thần huynh đệ chi binh, các chiến sĩ diện địa đã
đánh những trận long trời, bắn cháy nhiều chiến xa địch
và giữ vững Xuân Lộc trong vòng mười hai
ngày đêm. Trong ngày di tản ra khỏi Xuân Lộc,
chiếc xe Jeep của Đại Tá Phúc bị trúng một
trái B 40, ông bị thương nặng và rơi vào tay
giặc. Được phóng thích từ trại tù cộng sản sau năm
1975, Đại Tá Phúc hiện vẫn còn sinh sống ở Việt
Nam.
Cần phải kể
thêm sự đóng góp quan trọng và quyết định
của Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn
18 Bộ Binh, một sĩ quan Pháo Binh ngoại hạng. Thiếu Tướng Đảo
đặc biệt dành cho Tướng Hoàng Cầm một cái bẫy
mà ông gọi là “máy nghiền thịt”, với kế
hoạch hỏa lực kinh khủng trông cậy vào tài năng của
Đại Tá Hưng. Thiếu Tướng Đảo bố trí các khẩu
pháo của ông như sau. Một khu vực “chết” nằm ở bìa
hướng Tây Xuân Lộc mà sẽ bị 24 khẩu 105 ly và
12 khẩu 155 ly dội bão lửa xuống. Mười khẩu 105 ly được di
chuyển lên Núi Thị dưới sự bảo vệ của Tiểu Đoàn
2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Hai khẩu 105 ly tăng cường cho
Trung Đoàn 43 của Đại Tá Hiếu nằm trong Xuân Lộc.
Hai khẩu khác qua tăng cường cho Tiểu Khu Long Khánh.
Mười hai khẩu 105 ly được điều cho Trung Đoàn 48 trấn
đóng Đồi 300. Chưa kể hai khẩu 175 ly của Quân Đoàn
III tăng phái sẵn sàng bắn xa đến ít nhất 30
cây số để làm câm họng các khẩu 130 ly của
địch được đặt gần Bộ Chỉ Huy của Tư Lệnh sư đoàn tại ngã
ba Tân Phong. Đại Tá Hưng đích thân điều
chỉnh tất cả những khẩu đại pháo. Ông cho các xe
bulldozer ủi những hố sâu đặt những khẩu pháo để che dấu.
Những hố pháo này ăn thông với những hầm
tránh pháo kích do Công Binh thiết kế, để
bảo vệ các chiến sĩ Pháo Binh và kéo những
khẩu pháo vào ẩn trú bên trong. Với
sáng kiến này, quân cộng khó có thể
phát giác vị trí Pháo Binh của quân
ta để dội đạn xuống hủy diệt, trong khi đó thì những vị
trí pháo của chúng bị Pháo Binh SĐ18BB
pháo kích dữ dội, nhờ các điểm cao quan sát
của ta báo cáo về khi phát giác được. Để
có thể dự trữ khối lượng đạn pháo dành cho kế
hoạch, Tướng Đảo đã phải giảm mức tiêu thụ hàng
ngày xuống còn 20%. Với sự phân tán
các khẩu trọng pháo của quân ta vào những vị
trí bí mật, đến ngày cộng quân nổ
súng tấn công, chúng đã không hủy diệt
được pháo của quân ta, và Đại Tá Hưng
đã dội lửa xuống những con sóng tấn công biển người
của địch, gây thiệt hại rất nặng cho chúng. Song song
đó, Thiếu Tướng Đảo cũng cho di chuyển bộ binh ra nằm
ngoài rìa thị trấn, cho nên thiệt hại vì
pháo địch rất nhẹ khi chúng dồn hỏa lực bắn vào
trung tâm. Rồi khi quân giặc ào ạt tràn
vào thành phố, lập túc bị quân ta từ
bên ngoài siết chặt vòng vây tấn công
ngược vào làm bọn chúng hoảng loạn bỏ chạy ra khỏi
thành phố. Bản thân Thiếu Tướng Đảo cũng di chuyển
liên tục trong ba bộ chỉ huy sư đoàn khác nhau,
cộng quân cứ bắn dò mãi mà không
tìm thấy ông. Trong khi đó thì Thiếu Tướng
Đảo đang ung dung đứng dưới chiến hào với chiến sĩ của
mình. Thiếu Tướng Đảo đã cho thiết lập ba Bộ Chỉ Huy ở ba
vị trí khác nhau, một đặt ngay trong tư dinh Tư Lệnh
trong Xuân Lộc, một tại Tân Phong và một khác
trong rừng cao su. Để làm cho binh sĩ yên tâm chiến
đấu và tránh cảnh hỗn loạn, Thiếu Tướng Đảo trước
ngày 9.4.1975 đã cho máy bay trực thăng di tản tất
cả gia đình binh sĩ và thương bệnh binh về căn cứ Long
Bình.
Để nghênh
chiến với trận liệt bố trí bộ của địch, Thiếu Tướng Đảo thiết
trí chiến tuyến của Sư Đoàn 18 Bộ Binh như sau. Trung
Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng giữ khu vực
Túc Trưng và Núi Trản gần sông La Ngà
và khu vực Ngã ba Dầu Giây, với sự yễm trợ của Chi
Đoàn 3, Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh. Một đại đội dưới quyền chỉ
huy của Trung Úy Mại Mạnh Liêu thuộc Tiểu Đoàn 3/52
của Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ, lên trấn giữ Đồi Móng
Ngựa nằm về phía Đông Quốc Lộ 20. Chỉ với một đại đội
này, Trung Úy Liêu và chiến sĩ SĐ18BB
đã giữ vững vị trí mặc dù địch tổ chức nhiều cuộc
tấn công biển người cấp tiểu đoàn, đánh cho giặc
những trận thất điên bát đảo và bị thiệt hại nặng.
Về hướng Đông Xuân Lộc, cao điểm Núi Thị được trao
cho Tiểu Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế. Tiểu
Đoàn 1/43 của Đại Úy Đỗ Trung Chu và Tiểu
Đoàn 3/43 của Thiếu Tá Nguyễn Văn Du trấn giữ các
yếu điểm dẫn vào thành phố từ hướng Đông. Đại Đội
18 Trinh Sát dưới quyền của Đại Úy Phạm Hữu Đa nổi tiếng
húc như điên phòng thủ trường trung học ở hướng
Tây-Bắc Xuân Lộc. Trung Đoàn 43 quyết tâm tử
thủ Xuân Lộc, quân ta đánh quá dữ và
gây tổn thất lớn cho Sư Đoàn 341. Cộng quân ghi nhớ
mối hận này, chỉ vài ngày sau QLVNCH bị buộc
buông súng ngừng chiến đấu, Thiếu Tá Du bị giặc bắt
tại nhà riêng ở Vũng Tàu rồi đem đi hành
quyết ngay sau đó. Đại úy Chu may mắn sống sót,
hiện nay ông đang sinh sống tại Úc Đại Lợi. Tiểu
Đoàn 1/48 thuộc Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần
Minh Công cùng hai chi đoàn của Thiết Đoàn 5
Kỵ Binh của Trung Tá Nô được giữ làm lực lượng trừ
bị, trong khi đó thì Tiểu Đoàn 3/48 nằm giữ Quốc
Lộ 1 ở hướng Đông Xuân Lộc, Tiểu Đoàn 2/48 vẫn
còn bị kẹt nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho thị xã Hàm
Tân, Bình Tuy, không về tham chiến được trong những
ngày đầu. Hai Đại Đội Địa Phương Quân 353 và 367
dưới quyền Đại Tá Phúc phòng thủ thành phố.
Lữ Đoàn 1
Nhảy Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh với các Tiểu
Đoàn 1, 2, 8 và 9 Nhảy Dù, khoảng 2.000 chiến sĩ,
cùng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù là
một tấm lá chắn cứng ngắt ở phần phía Nam Xuân Lộc,
đã giao chiến dữ dội với quân Sư Đoàn 7 BV trong
khu vực đồn điền của Thống Tướng Tỵ, còn gọi là Vườn
Ông Tỵ, sau khi được trực thăng vận xuống trong ngày
11.4.1975. Nhân dịp 100 chiếc UH này trở về, các
phi công thuộc Sư Đoàn 3 và 4 Không
Quân đã giúp di tản thật nhiều thương binh
và đồng bào ra khỏi mặt trận đang lên đến cơn đỏ
lửa nhất. Trưa ngày 6.4.1975, Thiếu Tướng Đảo được báo
tin có một đơn vị lạ của quân ta đang hành
quân về hướng Xuân Lộc. Khi liên lạc với nhau,
ông được biết đó là Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân, thuộc Liên Đoàn 24 Mũ Nâu. Thiếu
Tá Vương Mộng Long, Tiểu Đoàn Trưởng đã dẫn dắt
tiểu đoàn của ông băng rừng từ quận Kiến Đức tìm về
miền Đông, sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và
Quân Đoàn II triệt thoái từ ngày 16.3.1975 .
Liên Đoàn 24 Mũ Nâu với ba Tiểu Đoàn 63, 81
và 82 BĐQ đã bị kẹt trên miền cao tỉnh Quảng Đức,
đã phải lội bộ trong những cánh rừng Trường Sơn bạt
ngàn, thậm chí đi xuyên qua những mật khu của cộng
quân, lấy thực phẩm trong những kho hậu cần của chúng, đến
hai mươi ngày sau mới về đến miền Đông. Tiểu Đoàn
63 và 81 Mũ Nâu lại nhận lệnh ra tăng phái cho mặt
trận Phan Rang. Tiểu Đoàn 82 Mũ Nâu quân số hao hụt
chỉ còn có 200 chiến binh sau khi về đến được thị
xã Bảo Lộc, Lâm Đồng, rồi từ đó hành
quân xuống tăng phái cho SĐ18BB. Thiếu Tá Long
là một trong những sĩ quan trẻ xuất sắc của binh chủng Biệt Động
Quân, nên trong khu vực trách nhiệm của mình
là phòng thủ phi trường, ông và 200 chiến sĩ
Mũ Nâu đã đánh quân giặc thua xiểng liểng
và bị thiệt hại nặng. Với trận liệt mà Thiếu Tướng Đảo
đã bố trí, với những cấp chỉ huy tài năng
và anh dũng như vậy, dù quân ta quân số thiếu
kém, hỏa lực yếu nhưng đã đánh một trận cuối
cùng làm rúng động thế giới và làm
cho quân giặc cúi mặt kinh hoàng.
Ngày
8.4.1975 Thiếu Tướng Đảo bàng hoàng được Quân
Đoàn III báo tin cho hay người bạn của mình
là Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân
Đoàn III đã chết một cách bí mật ngay trong
văn phòng của ông, nên Thiếu Tướng Đảo vội lên
trực thăng trở về Biên Hòa thăm hỏi. Cũng trong thời điểm
đó thì Thiếu Tướng Đảo nhận được một tin khó chịu
khác nữa. Tên nằm vùng cộng sản Đại Úy phi
công Nguyễn Thành Trung lái một chiếc F5E bỏ bom
Dinh Độc Lập, với ý định giết chết Tổng Thống Thiệu, nhưng Tổng
Thống Thiệu không hề hấn gì. Rồi sau khi đào tẩu ra
phía cộng quân Trung đã lái và dẫn
nhiều chiếc A-37 trở vào oanh kích phi trường Tân
Sơn Nhất ngày 29.4.1975. Sau nhiều cuộc thảo luận với Quân
Đoàn III, Thiếu Tướng Đảo vào căn cứ Long Bình
điều hợp công tác tiếp vận cho SĐ18BB và ông
ngủ đêm tại đây. Đến 5G 40 sáng thì
Quân Đoàn 4 BV cho nổ phát đại bác đầu
tiên bắn vào Xuân Lộc mở màn cho cuộc chiến.
Quả nhiên quân cộng đã nghiên cứu rất tỉ mỉ
địa hình Xuân Lộc, nên những trái đạn
pháo đã dội trúng Bộ Chỉ Huy 1 của Tương Đảo. Đại
Tá Hứa Yến Lến gọi điện báo tin cho Tướng Đảo, rằng tư
dinh của ông đã bị phá hủy. Thật may mắn cho đất
nước chúng ta, nếu Tướng Đảo về sớm hơn và vào Bộ
Chỉ Huy 1, thì sự mất mát quá lớn đó sẽ
là nhát chém chí mạng cuối cùng
lên QLVNCH. Thiếu Tướng đảo lập tức lên trực thăng lao
vào Xuân Lộc, tham dự cuộc chiến đấu cuối cùng
và lừng lẫy nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông.
Cuộc quyết
chiến Xuân Lộc
Trung
Đoàn 165 của Sư Đoàn 7 cộng quân được chọn
làm mũi nhọn tấn công chính trong giây
phút đầu tiên công phá vị trí Sư
Đoàn 18 Bộ Binh từ hướng Đông. Có 8 chiếc T54 được
tăng cường cho cánh quân này, với ý đồ
dùng những con ngoáo ộp này đè bẹp
quân ta. Bộ binh và thiết giáp giặc ầm ầm
xông tới với một khí thế mạnh mẽ và tự tin,
chúng có ảo tưởng rằng chiến sĩ Sư Đoàn 18 cũng sẽ
không đánh mà tan và sẽ vỡ chạy như
các đơn vị ngoài Quân Khu I và Quân
Khu II. Nhưng sự chuẩn bị thế trận và tinh thần rất tỉ mỉ của Bộ
Tham Mưu Sư Đoàn 18 Bộ Binh đâu phải để chạy mà
là dành cho quân giặc một sự ngạc nhiên đớn
đau. Nên nhớ là Xuân Lộc không phải là
Pleiku, Huế hay Đà Nẵng. Mà là chiến tuyến được
đốt lên bằng thứ lửa thịnh nộ của người lính Quân
Khu III.
Sư Trưởng Nam
Lửa của Sư Đoàn 7 Bắc Việt đã phạm một lỗi lầm rất lớn
không thể tha thứ được, là ông ta đã bỏ qua
giai đoạn trinh sát thực địa thực lực đối phương trước khi ban
lệnh tấn công. Cuộc gọi là “chiến thắng” dễ dàng
trong những ngày tháng 3.1975 đã làm tăng
thêm sự kiêu ngạo đến ngỗ ngáo của bọn tướng
tá cộng sản. Lẽ ra Nam Lửa phải đích thân
tìm hiểu xem ông ta đang đối đầu với những ai mới phải.
Nam Lửa đã mắc sai lầm lớn mà có thể sẽ đưa
ông ta về Bộ Tư Lệnh Miền để trình diện cấp trên,
và sẽ phải trả lời ông ta đánh giá Sư
Đoàn 18 Bộ Binh và Tư Lệnh Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo
ra làm sao mà Sư Đoàn 7 của ông ta đã
bị thiệt hại đến 2,000 bộ đội, một con số có thể trả giá
bằng cái đầu của ông ta.
Với tư tưởng
chắc thắng đó Trung Đoàn 165 Bắc Việt từ lúc 5 giờ
40 sáng đã dùng chiến thuật biển người tràn
lên hung hăng xông qua tám lớp hàng
rào kẽm gai chằng chịt của quân Nam. Nhưng ngay trong giờ
đầu tiên, binh đội cộng sản đã bị các chiến sĩ Tiểu
Đoàn 1 và 3 của Trung Đoàn 43, dưới quyền chỉ huy
của Đại Tá Lê Xuân Hiếu đánh gục ngay tại
chỗ. Một ngạc nhiên đẫm máu đang chờ đón tám
chiếc xe tăng của giặc. Chiến sĩ Trung Đoàn 43 đã
phát minh một sáng kiến “tân kỳ” diệt tăng địch từ
một khoảng cách rất an toàn. Những khẩu M 72 “Bà
Già Giết Giặc” được giương ra sẵn và đặt trên một
cái giá cố định đã được ngắm trước, bộ phận
kích hỏa được nối với những bình điện. Người bấm
dây diện sẽ nấp trong chiến hào ở một chỗ rất kín
đáo và an toàn, chờ xe tăng địch đến đúng
tầm, a lê hấp bấm mạch điện. Chiếc hỏa tiễn đen nhánh với
2 in 75 (khoảng 3 phân rưỡi) xịt một cái xẹt đúng
vào pháo tháp địch, sức nóng trên
2,000 độ C của nó xoáy sâu vào lớp
thép dầy chui vào bên trong và nổ
bùng lên. Trong khoảnh khắc 4 chiếc T54 bị bắn cháy
ngay trước vòng rào chiến tuyến, lính thiết
giáp địch có chết cũng không nhắm mắt, vì
chúng không thấy đối phương nào nhú đầu
lên bắn cả. Vậy thì cái gì đã bắn
chúng chứ hả. Khi ánh bình minh lên,
đoàn khu trục cơ A 1, A 37 và F 5 từ Biên
Hòa gầm rú xuất trận làm cho tinh thần quân
ta càng bốc cao ngất trời. Trong những ngày Long
Khánh đỏ lửa, Không Quân Việt Nam đã
góp phần tích cực và quyết định trong nhiều trận
đánh khốc liệt, mà nếu không có những người
phi công dũng cảm đến phi thường đó, anh em bộ binh dưới
đất còn gặp nhiều vất vả và tổn thất thêm nhiều
máu xương.
Mũi dùi
thứ hai, binh đội Trung Đoàn 209 cộng sản ào ào
ôm AK, B40, B41 chạy vào chiến tuyến của Tiểu Đoàn
82 Biệt Động Quân mới vừa từ mặt trận Quảng Đức về đến Long
Khánh chỉ có mấy ngày. Một trung đoàn địch
tưởng có thể áp đảo 200 chiến sĩ Mũ Nâu. Nhưng đụng
phải Thiếu Tá Vương Mộng Long, một hào kiệt Biệt Động
Quân và những ngườ lính Liên Đoàn 24
Biệt Động Quân đang bừng bừng cơn uất hận triệt thoái
Quân Khu II, Trung Đoàn 209 bị đánh văng ra khỏi
trục Quốc Lộ 1 với thiệt hại rất nặng. Thiếu Tướng Hoàng Cầm, Tư
Lệnh Mặt Trận đã phải kêu lên trong cuốn Lịch Sử
Quân Đội Nhân Dân (Quân Bắc cộng): “Không
có đợt tấn công nào của sư đoàn (7)
vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân Sư Đoàn 18 ngụy
(sic) và hậu trận của Trung Đoàn 52 đạt thành quả.
Bộ đội chúng ta đã chật vật đánh nhau với địch để
giành quyền kiểm soát từng đoạn chiến hào, từng
căn nhà, từng góc phố. Giải thích tinh thần chiến
đấu can cường của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Đảo cho biết:
“Tất cả chiến sĩ đều quyết chiến đấu. Thậm chí những sĩ quan
tham mưu, binh sĩ hậu cứ đều vào tuyến đánh địch.
Còn nữa, tất cả những thành phần chiến thương hay lao
công đào binh đều được phép cầm súng tử
chiến. Tất cả chiến sĩ đều rất dũng cảm và giết nhiều quân
địch “.
3.
Phần 3
|
|
Sư Trưởng Đại Tá Trần Văn Trấn của Sư
Đoàn 341 tân lập non kém mới từ miền Bắc vào
Nam thận trọng hơn Nam Lửa nhiều. Biết mình biết người, Trấn
đã cất công đi trinh sát tỉ mỉ vị trí
và trận thế của quân ta. Khu vực trách nhiệm của Sư
Đoàn 341 ở hướng Tây Bắc Xuân Lộc nhờ có địa
thế hiểm trở bảo vệ, nên cuộc tấn công của sư đoàn
này vào Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá
Ngô Kỳ Dũng tương đối “dễ thở” hơn từ hướng Đông Bắc
khá trống trải của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Trấn cho Trung
Đoàn 266 chia nhiều cánh tấn công vào khu
trường trung học, chỗ Đại Đội 18 Trinh Sát của Đại Úy
Phạm Hữu Đa và vào khoảng đường ngoặt vòng gọi
là Ngã Ba C. Các máy bay yểm trợ hỏa lực
Hỏa Long C119 của Không Quân đã tức tốc bao
vùng và xạ kích dữ dội xuống những chiếc áo
màu rêu lổn nhổn ngoài 5 lớp kẽm gai phòng
thủ, cộng thêm với quyết tâm của Đại Úy Đa và
em út của ông, Trung Đoàn 266 bị đánh bật
trở ra ngoài. Những thành phần khác của Trung
Đoàn 266 Bắc Việt mở mũi đột phá định xông về hướng
Đông xuyên qua vị trí của Tiểu Đoàn 340
và 342 Địa Phương Quân dưới quyền chỉ huy của Đại
Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng
Long Khánh. Hai Tiểu Đoàn 5 và 7 của Trung
Đoàn 266 cộng sản bị quân Trinh Sát và Địa
Phương Quân đánh tan nát, tiểu đoàn
còn lại với 300 bộ đội buộc phải bỏ trận địa tìm
cách đi vòng qua khỏi trường trung học và
đã xâm nhập sâu 300 thước vào tỉnh lỵ
Xuân Lộc. Khu chợ Xuân Lộc, nhà thờ, bến xe
đò, Tiểu Khu Long Khánh tràn ngập địch quân.
Đến 7 giờ 40 sáng, quân Trung Đoàn 266 của Sư
Đoàn 341 đã bắt đầu quậy phá thành phố,
nhưng quân ta vẫn kiểm soát phần lớn Xuân Lộc.
Tại mặt trận phía Tây, Trung
Đoàn 270 Bắc Việt tiến đánh căn cứ Núi Thị
và Gia Tân, nhưng chạm phải sức kháng sự kiên
quyết của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 43 Bộ Binh làm
nó bị khựng lại. Mới chỉ bị tổn thất có 12 bộ đội
mà Trung Đoàn 270 đã vội vã chém
vè (rút lui) về vị trí xuất phát chờ lệnh
mới.
Để đương đầu với tất cả những mũi dùi
đột phá và những cánh quân vào
sâu trong Xuân Lộc của quân cộng, Chuẩn Tướng Đảo
tung ra một đợt phản công rất quyết liệt. Từ lúc 11 giờ
trưa, lực lượng trừ bị của Sư Đoàn 18 là Tiểu Đoàn
1 của Trung Đoàn 48, do Trung Tá Trần Minh Công
làm Trung Đoàn Trưởng, cùng với các thiết
kỵ của Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh bắt đầu hoạt động càn
quét địch. Sư Đoàn 341 liền gọi Trung Đoàn 270
còn nguyên vẹn lực lượng gửi một tiểu đoàn thọc
ngang hông Tiểu Đoàn 1/48 để chận bước tiến của quân
ta. Nhưng ở trên chiến trường Long Khánh này,
phía địch đã mất hết yếu tố bí mật, các đơn
vị địch dần dần lộ diện và tập trung đông đảo. Đó
là điều mà Chuẩn Tường Đảo và Sư Đoàn 3
Không Quân cùng Pháo Binh chờ đợi từ những
ngày đầu thiết kế. Càng tập trung quân phía
địch càng lâm vào thế thất lợi và thiệt hại
lớn, vì dễ dàng làm mồi cho các loại hỏa
lực rất hùng hậu của quân ta. Những dàn đại
pháo 130 ly, 122 ly từng gây nhiều sóng gió
trên những mặt trận khác đã tỏ ra vô hiệu quả
trên chiến trường Long Khánh. Những khẩu 105 ly và
155 ly được Đại Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư
Đoàn 18 phân tán ở những vị trí được ngụy
trang cẩn thận, ông còn cho xe ủi đào những đường
sâu rộng trong đất và kéo pháo xuống dấu,
chỉ còn ló lên mũi súng. Chiến sĩ
Pháo Bnh được đất mẹ bảo vệ chung quanh nên rất ung dung
và hăng hái yểm trợ hỏa lực cho chiến hữu Bộ Binh. Chiến
thuật rải quân chận địch ngay ngoài chu vi thị xã
của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 đã ngăn chận hiệu quả
thành phần tiền sát viên địch bám sát
vào các vị trí pháo của ta để chỉ điểm tọa
độ. Cho nên, trong trận Xuân Lộc, pháo binh địch chỉ
bắn dò dẫm như những anh mù và pháo bừa
bãi vào khu dân cư, gây tội ác
lên dân chúng vô tội rất giống thời An Lộc,
Quảng Trị và Kontum của mùa hè 1972. Phụ tiếp với
Tiểu Đoàn 1/48, Tiểu Đoàn 1/43 và hai Tiểu
Đoàn 340, 342 Địa Phương Quân mở cuộc tảo thanh khu trục
thành phần Trung Đoàn 266 của Sư Đoàn 341
xâm nhập tỉnh lỵ hồi sáng. Trung Đoàn 266 liều chết
cố bám thành phố nên đã cam chịu thiệt mạng
đến 600 cán binh.
Tại khu vực trách niệm của Sư
Đoàn 6 tân lập cộng sản, áp lực của sư đoàn
này đè nặng lên các tiểu đoàn Địa
Phương Quân về hướng Tây Xuân Lộc. Trung Đoàn
274 cộng quân tấn công xã Trần Hưng Đạo và
chiếm được đoạn Đèo Mẹ Bồng Con. Đây là con đường
đèo thấp chạy xuyên qua một khu rừng cao su, địa thế rậm
rạp, rất thuận lợi cho địch quân thiết trí chốt từ
Ngã Ba Dầu Giây về phía Xuân Lộc. Trung
Đoàn 33 của Sư Đoàn 6 hỗ trợ cho Trung Đoàn 274
bằng cuộc tiến đánh làng Hưng Nghĩa và Hưng Lộc
trệch về phía Tây Ngã Ba Dầu Giây. Nhưng thật
ngạc nhiên và thật ngỡ ngàng cho cánh
quân đánh Hưng Lộc, khi đơn vị Nghĩa Quân Long
Khánh ở đây người ít, súng kém
mà đã đánh quá hăng, làm quân
Trung Đoàn 33 không vào được. Ý định khống
chế Ngã Ba Dầu Giây cũng không thành
vì Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh của quân ta đã
ngăn chận được. Tuy nhiên trận chiến đấu càng kéo
dài thì Sư Đoàn 18 Bộ Binh càng không
còn đủ quân số để hành quân càn
quét những chốt chận trên Quốc Lộ 1 ở khu vực này,
quân ta chỉ có thể giữ chắc những chiến tuyến án
ngữ hướng tiến của địch.
Ngày đầu tiên bị thất lợi
và thiệt hại trên khắp mọi hướng tấn công,
Hoàng Cầm, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 cộng quân
kiêm Mặt Trận Long Khánh buộc phải chấp nhận lời thỉnh cầu
của Tướng Bùi Cát Vũ, Tư Lệnh Phó, điều động
thành phần dự bị là Trung Đoàn 141 nhập cuộc.
Các Trung Đoàn 165, 209 đều nhận thêm chiến xa
và đơn vị phòng không để khai diễn đợt tấn
công kế tiếp. Sư Đoàn 341 lệnh cho Trung Đoàn 270
tìm cách xâm nhập thành phố để “chi viện”
(danh từ tăng viện tiếp cứu mặt trận của phía Việt cộng) Trung
Đoàn 266 đang rách nát tả tơi. Cũng khoảng 5 giờ
27 sáng ngày 10.4.1975, Quân Đoàn 4 Bắc Việt
mở màn cuộc tấn công đợt hai vào Xuân Lộc
bằng 1,000 trái đạn pháo đủ loại vào thành
phố. Đạn nổ tứ tung và bừa bãi chỉ gây đổ
nát thêm cho nhà cửa dân chúng, nhưng
không hề hấn gì đối với chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ
Binh. Vì từ những ngày trước khi mặt trận nổ, Chuẩn Tướng
Đảo đã cho di chuyển các đơn vị ra thiết trí
ngoài thành phố và di tản tất cả gia đình
binh sĩ và thương binh về Biên Hòa. Một số
dân chúng cũng được trực thăng Chinook CH 47 bốc về nơi an
toàn. Nên hy vọng sẽ tạo nên một bãi
máu thịt kinh khiếp như thời An Lộc của Tướng Hoàng Cầm
đã không gây được một mức độ đáng kể
nào, ngoài những đống gạch, tôn thiếc cháy
đổ ngỗn ngang khắp nơi. Chuẩn Tướng Đảo còn chu đáo bố
trí những trạm quan sát trên những cao điểm để
phát giác các điểm đặt súng đại bác
của địch, từ đó dàn nhạc Pháo Binh của Đại
Tá Hưng và Không Quân dội xuống tiêu
diệt chúng. Hoạt cảnh chiến bại lập lại y hệt một cách lạ
lùng như ngày 9.4.1975. Trung Đoàn 209 vẫn bị Tiểu
Đoàn 82 Biệt Động Quân ghìm chân ở
phía phi trường. Trung Đoàn 165 cộng quân vẫn
không qua được Trung Đoàn 43 của Trung Tá Trần Minh
Công, mà lại hao tốn thêm 5 chiếc T54 nữa. Thế mới
đau.
Cũng giống như ngày hôm trước, đến
trưa hai Tiểu Đoàn 1/43 và 1/48 của Sư Đoàn 18
làm thành hai gọng kềm đánh từ ngoại ô
vào và từ lòng thành phố ra để dọn dẹp bộ
đội Sư Đoàn 341 ẩn náu trong thành phố. Nhiều
tù binh trẻ măng, quá trẻ là đằng khác, chỉ
khoảng 16, 17 tuổi, bị quân ta bắt được trong trạng thái
kinh hoàng tột độ. Đó là những em bé
còn ngồi ở ghế nhà trường bị cộng sản đem xe đến
xúc đi chở vào quân trường. Ở đó những thiếu
niên nạn nhan này được huấn luyện qua loa chạy, nằm,
trườn, bò, cách bắn súng, thảy lựu đạn trong
vòng không quá một tuần lễ, để rồi bị thảy
vào lò lửa miền Nam. Rất nhiều cậu bé mặt mũi xanh
xám vì chết khiếp nằm núp trong những ống cống
mà băng đạn còn nguyên xi trong ổ AK chưa bắn một
viên nào. Cuộc trường chinh làm tay sai cho quốc tế
cộng sản của bọn cộng sản khát máu Hà Nội
chính là một cuộc trường thiên đại tàn
sát thế hệ trẻ và người dân vô tội hai miền
Nam Bắc.
Thất bại buổi ban ngày, bọn tướng
tá cộng vẫn không chịu cam tâm khuất phục,
chúng tiếp tục khuấy phá thành phố suốt đêm
với 2,000 trái đạn pháo. Chúng đang áp dụng
chiến thuật làm sức lực quân ta tiêu hao, mệt mỏi
vì mất ngủ như đã làm ở An Lộc. Nhưng những chiếc
C130 trang bị đại bác 20 ly của Sư Đoàn 3 Không
Quân Việt Nam đã cất cánh lên vùng
trời Long Khánh xạ kích yểm trợ quân bạn.
Quân cộng lại thối lui, những trục đường tiếp liệu và tải
thương gặp nhiều khó khăn vì phi cơ Không
Quân bắn dữ quá.
Mặt trận Long Khánh bước sang
ngày thứ ba 11.4.1975, Hoàng Cầm lệnh cho Sư Đoàn
341 bằng mọi giá phải đánh thủng chiến tuyến của Trung
Đoàn 43 Bộ Binh để bắt tay với Sư Đoàn 7. Lúc 5
giờ 30 sáng, pháo binh địch đã dội một cơn
bão lửa xuống thành phố Xuân Lộc trong vòng
nửa tiếng đồng hồ. Màn lửa đạn của chúng dần dần chuyển
về phía Núi Thị và Tân Phong để yểm trợ khu
vực tấn công của Sư Đoàn 7 Bắc Việt. Nhưng thật khốn khổ
cho lũ cán binh địch, nhọc lòng mà chẳng nên
công cán gì. Hai cánh quân của Sư
Đoàn 341 và 7 cộng quân vẫn bị đánh văng trở
ra y hệt như hai ngày trước, trong khi đó chiến sĩ Sư
Đoàn 18 Bộ Binh đã tái chiếm lại được gần hết
những vị trí bị giặc xâm nhập trong Xuân Lộc. Sư
Đoàn 7 có 300 cán binh bị thương, Sư Đoàn
341 có 1,200 bị thương. Đó là con số của
phía cộng quân công bố, trong thực tế con số
này còn cao hơn nhiều. Ngoài ra Hoàng Cầm
cũng thừa nhận là tất cả súng không giật 85 ly
và 57 ly sau ba ngay giao chiến đều đã bị Sư Đoàn
18 Bộ Binh hủy diệt hết. Hơn 100 chiếc xe vận tải của địch rùng
rùng tuôn xuống từ phía Bắc trên Quốc Lộ 20
bị Không Quân Việt Nam chận đánh dữ dội buộc phải
quay đầu tháo chạy.
Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh xung trận
Tuy rằng Quân Đoàn 4 Bắc Việt đang
bị ghìm chân ở Long Khánh và bị thiệt hại
rất nặng, nhưng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa nhận định rằng, ý nghĩa của mặt trận Long
Khánh không phải chỉ liên quan mỗi vấn đề
phòng thủ, mà còn là tinh thần chiến đấu
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nếu quân ta
có thể gây tổn thất nặng nề cho quân cộng, chiến
thắng đó sẽ gây tác dụng tốt trong tình thế
hiểm nghèo của Việt Nam Cộng Hòa, và có thể
lật ngược được cán cân đang rất bất lợi cho Việt Nam Cộng
Hòa. Vì thế, bằng mọi cách phải khai thác
chiến thắng Xuân Lộc và củng cố hùng khí
chiến đấu của Sư Đoàn 18 bằng cách gửi một lực lượng chia
sẻ bớt sức ép của địch trong tỉnh Long Khánh. Trung Tướng
Nguyễn Văn Toàn, vừa mới lên nhận chức vụ Tư Lệnh
Quân Đoàn III & Quân Khu III thay thế Trung
Tướng Dư Quốc Đống chưa được mấy thời gian, đã rất bận rộn đương
đầu với vấn đề sinh tử của quốc gia. Tướng Toàn lập tức điều
động Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi,
được tăng cường Biệt Động Quân và Pháo Binh để trở
thành Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân Đoàn
III, vào mặt trận Long Khánh. Nhiệm vụ tiên khởi
của Chuẩn Tướng Khôi sẽ là khai thông trục Quốc Lộ 1
từ xã Hưng Nghĩa cho đến Ngã Ba Dầu Giây. Chuẩn
Tướng Khôi đã tổ chức Lực Lượng Xung Kích
thành ba chiến đoàn như sau, mỗi chiến đoàn gồm
một Chi Đoàn Kỵ Binh, một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân
và một Pháo Đội Pháo Binh:
Chiến Đoàn 315, dưới quyền chỉ huy của
Trung Tá Đỗ Đức Thảo.
Chiến Đoàn 318, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn
Đức Dương.
Chiến Đoàn 322, dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nguyễn
Văn Liên.
Lực Lượng Kỵ Binh Xung Kích Quân
Đoàn 3 từng gây kinh hoàng cho giặc trong chiến
dịch Toàn Thắng đánh sang các căn cứ ẩn núp
và kho hậu cần của cộng sản trên đất Kampuchea năm 1970,
1971. Rồi đến những chiến dịch An Điền, Rạch Bắp, Tam Giác Sắt
của năm 1973. Được đặt dưới quyền của Chuẩn Tướng Trấn Quang Khôi
và những sĩ quan cấp Tá trẻ tuổi đầy tài năng, Lực
Lượng 3 Xung Kích thực sự là một quả đấm bằng thép
giáng vào bất cứ đội hình cứng nào của giặc
và đánh cho nó bể vỡ ra thành nhiều mảnh
nhỏ. Sự ra đi của Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh khỏi Tây Ninh
ít nhiều cũng làm giảm thiểu sức mạnh của Sư Đoàn
25 Bộ Binh, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Lý Tòng
Bá, đang đối đầu với Quân Đoàn 3 Bắc Việt. Chuẩn
Tướng Bá chỉ còn có thể trông cậy vào
Thiết Đoàn 10 Kỵ Binh cơ hũu của Sư Đoàn.
Đoàn chiến xa M 48 của Lực Lượng 3 Xung
Kích hành quân nhanh chóng đến Hưng Nghĩa
trong ngày 11.4.1975 liền đụng độ ngay với chốt của Sư
Đoàn 6 cộng sản gần Hưng Lộc. Chiến Đoàn 315 tiếp tục
theo con đường số 1 húc tới, Chiến Đoàn 318 rẽ lên
phía Bắc để bảo vệ cạnh sườn Lực Lượng Xung Kích, đồng
thời tìm con đường bọc vòng qua chốt địch. Chuẩn Tướng
Khôi thiết lập Bộ Chỉ Huy Lực Lượng tại Trảng Bom. Cuộc tiến
quân của Chiến Đoàn 315 chậm chạp vì địa thế rừng
núi phức tạp hai bên quốc lộ, chiến xa của Kỵ Binh chỉ
có thể tiến hàng một trên con đường nhựa và
đã gặp khó khăn vì không thể dàn đội
hình xung phong dội hỏa lực tiêu diệt chốt địch. Biệt Động
Quân được gọi lên bứng chốt. Con đường Hưng Lộc - Dầu
Giây làm gợi nhớ con đường máu Chơn Thành -
Tàu Ô của Bình Long 1972. Sư Đoàn 6 cộng sản
bám chặt Quốc Lộ 1, giống như Sư Đoàn 7 cộng sản giữ cứng
ngắt Quốc Lộ 13 hồi mùa hè 1972. Cuộc chiến đấu của Biệt
Động Quân kéo dài dằng dai qua đến ngày
13.4.1975. Ý định cho Lực Lượng 3 Xung Kích bắt tay với
Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng đang
bố trí quân gần Quốc Lộ 20 ở đoạn Ngã Ba Túc
Trưng và ở phía Tây Bắc Xuân Lộc đã
không thực hiện được.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù tăng viện mặt
trận
Trong lúc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cầm
chân Sư Đoàn 6 Bắc Việt tại Ngã Ba Dầu Giây,
Chuẩn Tướng Đảo vẫn tiếp tục mở những cuộc phản công càn
quét quân giặc tại Xuân Lộc. Tiểu Đoàn 2/48
đang giữ an ninh cho thị xã Hàm Tân, Bình
Tuy, được gọi về tăng cường cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Một tin vui
nữa bay đến làm nức lòng quân dân Xuân
Lộc. Trung Tướng Toàn quyết định ném Lữ Đoàn 1
Nhảy Dù vào mặt trận. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù của
Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh rút về từ Quân Khu I đang
làm nhiệm vụ bảo vệ Sài Gòn và tổng trừ bị
cho Bộ Tổng Tham Mưu. Sự ra đi của Lữ Đoàn 1 Dù đã
để lại một khoảng trống lớn tại Sài Gòn, nhưng nếu
quân Dù có thể đánh thắng Quân
Đoàn 4 Bắc Việt tại cửa ngỏ dẫn vào Sài Gòn
là Long Khánh để giúp nâng cao tinh thần
chiến đấu chung của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, thì
đó là việc phải làm.
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù với một lực
lượng hùng hậu gồm Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9
Dù, cộng với Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù,
quân số 2,000 chiến sĩ. Bộ Tổng Tham Mưu đã tận lực
giúp Trung Tướng Toàn bằng cách huy động 100 chiếc
trực thăng UH 1 và nhiều Chinook CH 47 để câu những khẩu
đại bác vào vị trí chiến đấu. Hai Tiểu Đoàn
Dù được không vận, một chiến thuật quen thuộc và
thần tốc của quân Mũ Đỏ, nhảy ngay lên Quốc Lộ 1 ở
phía Nam Xuân Lộc chiếm lĩnh và càn
quét những thành phần địch bám giữ ở đó.
Một Tiểu Đoàn Dùø khác nhảy xuống thiết lập
chiến tuyến trong khoảng rừng cao su gần đồn điền cũ của Đại Tướng
Lê Văn Tỵ, hình thành thế bao vây một tiểu
đoàn của Sư Đoàn 7 cộng sản Bắc Việt. Một Tiểu
Đoàn Dù cuối cùng nhảy vào Xuân Lộc
tăng viện cho lực lượng của Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng Long
Khánh. Cũng nhân cơ hội quí giá này,
dân chúng và thương binh còn bị kẹt trong
thành phố đã được bốc ra khỏi chiến trường an
toàn.
Trước khi Lực Lượng 3 Xung Kích tiến
quân lên Quốc Lộ 1, thì Tiểu Đoàn 1/52 trấn
giữ ấp Phan Bội Châu bị áp lực rất nặng của Trung
Đoàn 33, Sư Đoàn 6 Bắc Việt, nhưng chiến sĩ Tiểu
Đoàn đã giữ chắc vị trí. Mặc dù Trung
Đoàn 52 đang gặp nhiều khó khăn, con số chiến thương
càng lên cao, nhưng Chuẩn Tướng Đảo vẫn quyết định gọi
Tiểu Đoàn 2/52 đang giữ ấp Nguyễn Thái Học trở về tăng
viện Xuân Lộc ngày 10.4.1975. Tiểu Đoàn 3/52 của
Thiếu Tá Phan Tấn Mỹ ở gần đó nhận lệnh gửi hai đại đội
trám chỗ cho Tiểu Đoàn bạn. Cuộc hành quân
trở về Bộ Tư Lệnh của Tiểu đoàn 2/52 là cả một chuỗi
chiến đấu hào hùng trong vòng vây thắt ngặt
của giặc. Trước hết các chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/52 len lỏi
trên con đường mòn giữa rừng tìm cách bọc
vòng qua Trung Đoàn 274 của Sư Đoàn 6 cộng
quân đang chốt chận trên khoảng Đèo Mẹ Bồng Con.
Quân ta lầm lũi đi suốt đêm trong cánh rừng cao su
gần ấp Núi Tùng. Nhưng đến rạng sáng ngày
11.4.1975 thì Tiểu Đoàn 2/52 chạm phải một đơn vị cộng
sản đang chiếm giữ ấp. Cuộc tao ngộ chiến diễn ra dữ dội và
kéo dài đến 4 giờ chiều, quân địch tháo
chạy, quân ta tiếp tục cuộc hành trình ngay trong
đêm đó và đã đến được khoảng đường
Ngã Cua C. Sáng ngày 12.4.1975, Tiểu Đoàn
2/52 lại va phải một đơn vị địch khác từ phía sau lưng.
Dĩ nhiên chiến sĩ ta không bỏ lỡ cơ hội nện lên lưng
địch một cú để đời, tống tiễn 60 cán binh xuống địa ngục
và tịch thu đúng 60 súng AK. Trận đánh
này đã kết thúc đoạn đường máu trong
vòng vây giặc để Tiểu Đoàn 2/52 bắt tay được với
Trung Đoàn 43 Bộ Binh trấn giữ thành phố. Song song với
cuộc chiến đấu của Tiểu Đoàn 2/52, các Tiểu Đoàn
Dù của Lữ Đoàn 1 Dù sau nhiều trận giáp
chiến đã đi đến giai đoạn bao vây Tiểu Đoàn 8 của
Sư Đoàn 7 Bắc Việt tại khu vực xã Bảo Định.
Cộng sản Hà Nội rúng động
Sau những ngày tháng 3.1975 thắng
lợi một cách giả tạo, tin chiến bại của Quân Đoàn 4
báo cáo về đã làm cho Hà Nội
bàng hoàng rúng động. Chỉ mới có ba
ngày giao chiến mà bọn chúng đã giật
mình kinh hoảng, cho thấy cái lá gan thỏ đế của
chúng lớn đến như thế nào. Từ đó người ta
có thể rút ra được kết luận rõ rãng, rằng
bọn chính trị và tướng tá giặc chỉ giỏi
khoác lác mồm miệng khi có được sự may mắn
nào đó, và rất nhanh chóng lộ rõ bản
chất hèn nhát khi chạm phải thực tế phũ phàng. Mới
có ba ngày giao tranh thôi, chưa hẳn Sư Đoàn
18 Bộ Binh đã hoàn toàn thắng thế, vậy mà
những khuôn mặt “lớn” của chiến dịch xâm lăng như Lê
Đức Thọ, Chính Ủy, Văn Tiến Dũng, Tư Lệnh,Trần Văn Trà,
Tư Lệnh Mặt Trận Miền Đông, đã rối rít kéo
nhau về họp để cùng “tái lượng định” tình
hình, để cuối cùng nặn ra một kế hoạch nhục nhã
như sau. Ngày 13.4.1975, Trần Văn Trà sẽ xuống tận hiện
trường để xem bọn Hoàng Cầm, Bùi Cát Vũ làm
ăn bết bát thế nào, nếu cần thì Trà
đích thân chỉ huy.
Tưởng là Trà sẽ có kế
sách gì hay ho lắm để tiếp tục tấn công, bản
thân ông ta cũng thấy quá khó khăn khi đối
đầu với Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, những sĩ quan chỉ huy trẻ thao
lược và chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh dũng mãnh. Đến
đây đã lộ rõ sự thật về tinh thần và sức
mạnh tác chiến của binh đội Bắc Việt. Một quân đội
mà chỉ được xây dựng trên sự ép buộc
dã man như bắt thanh niên đi lính, nếu trốn
tránh thì cứ đè cha mẹ họ ra mà cắt hộ khẩu
cho chết đói; trên sự hằn thù giết chóc: bộ
đội buộc phải tiến về phía trước, chính trị viên
và cấp chỉ huy dí súng đằng sau lưng, nếu bỏ chạy
về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa xin hàng
là bị chúng bắn, hay bỏ chạy về phía sau cũng bị
bắn luôn, thậm chí bị xích vào vị trí
chiến đấu. Và trên hết một quân đội được xây
dựng hoàn toàn bằng sự nói láo và
xô đẩy cán binh vào chỗ chết vì sự dối
trá tàn nhẫn ấy, thì làm sao bọn tướng
tá giặc có thể hy vọng cán binh của chúng
thực tâm chiến đấu cho những tham vọng và ảo vọng
khát máu của chúng cho được. Bởi vậy trận
đánh Xuân Lộc ba ngày chiến bại chứng minh
hoàn toàn quân đội miền Bắc là một đạo
quân rời rã mà chỉ được kết dính bằng thứ
keo của bạo lực, nhồi sọ, căm thù và láo
khoét.
|
4. Phần
4
|
|
Thị sát
chán chê những đơn vị tả tơi của Quân Đoàn 4
cộng sản, Trần Văn Trà nhanh chóng đi đến một quyết định
mà Hoàng Cầm và Bùi Cát Vũ đã
nghĩ đến nhưng không dám trình lên, là
rút quân. Nhưng để cho cuộc thối lui đó được
tô vẽ bằng một thứ nước sơn giả dối khác , Trà đề
nghị kế hoạch cho Quân Đoàn 4 đi vòng tránh
Sư Đoàn 18 Bộ Binh và tiến thẳng về Sài
Gòn. Về sau này, Trà đã rất tự đắc
huênh hoang viết hồi ký khoe “sáng kiến” bỏ chạy ấy
là của mình, tranh công với Văn Tiến Dũng, cũng vỗ
ngực nói là “chiến lược” của ông ta. Dũng,
Trà và cả bộ chính trị Hà Nội thực sự
đã dự định đánh tan tành Sư Đoàn 18 Bộ Binh
tại Xuân Lộc để gọi là làm nhục Quân
Đoàn III vàQuân Lực Việt Nam Cộng Hòa
trên trường quốc tế, điều mà chúng may mắn
có được với Quân Đoàn I và Quân
Đoàn II của quân ta trong tháng 3.1975, từ
đó sẽ nghênh ngang kéo quân trên Quốc
Lộ 1 về Sài Gòn. Dù sau này trong tất cả
cuốn sử hay hồi ký của tướng tá Việt cộng có
nói khéo thế nào, thì người đời sau cũng
hiểu rõ rằng, trận đánh tại Xuân Lộc là một
cuộc chiến bại nhục nhã của cộng sản. Muốn làm nhục một
quân đội anh dũng là Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, nhưng Hà Nội đã nhận được một bài học
cay đắng tại Xuân Lộc, mà bài học đó sẽ
còn lưu lại trong sách sử đến ngàn đời sau.
Chiến thắng
cuối cùng
Khi tổ chức bao
vây Xuân Lộc, Quân Đoàn 4 cộng sản đã
để rất nhiều thời gian nghiên cứu, thì khi muốn rút
lui ra khỏi mặt trận, cấp chỉ huy địch cũng phải vạch kế hoạch tỉ mỉ
không kém để làm sao cho Bộ Tư Lệnh Hành
Quân Sư Đoàn 18 Bộ Binh không giải đoán được
ý định của chúng. Quân Đoàn 4 sẽ rút
quân dần dần, các đơn vị còn ở lại vẫn tiếp tục mở
những cuộc tấn công làm ra vẻ chúng còn
quyết chiếm Xuân Lộc. Theo kế hoạch này, Văn Tiến Dũng
đã đích thân ra lệnh miệng cho Hoàng Cầm, từ
đó Cầm điều động Trung Đoàn 165 và Trung
Đoàn 266 cứ ở yên tại vị trí. Trong khi đó
thì Trung Đoàn 209 vẫn cứ tạo áp lực lên
cạnh sườn các đơn vị của Lữ Đoàn 1 Dù. Trung
Đoàn 270 cộng sản rút dần về phía Núi Thị
và tổ chức tấn công lên cứ điểm này. Như vậy
dưới mắt cấp chỉ huy Sư Đoàn 18 Bộ Binh, lực lượng cộng
quân vẫn có vẻ tiếp tục kéo dài cuộc tấn
chiếm Xuân Lộc. Tin tức tình báo cũng báo
động cho biết Trung Đoàn 95B của Sư Đoàn 325 thiện chiến
Bắc Việt đang có mặt trên cao nguyên Darlac,
là thành phần tham gia chiến dịch tấn chiếm tỉnh lỵ Ban
Mê Thuột, đã được gọi xuống tăng cường cho mặt trận Long
Khánh. Trung Đoàn 95B, mệnh danh là Trung
Đoàn Sông Hương, sau một ngày bôn tập,
ngày 13.4.1975 đã có mặt trên chiến trường
miền Đông.
Một cuộc họp
quan trọng diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 Bắc Việt,
Tướng Trần Văn Trà và các cấp chỉ huy ở đó
đi đến quyết định: “Xuân Lộc là một trọng điểm trên
tuyến phòng thủ của địch, chúng đã tập trung nhiều
đơn vị lớn để bảo vệ. Chúng ta không còn giữ được
yếu tố bất ngờ nữa. Vì vậy chúng ta không
còn lợi thế để tiếp tục cuộc tấn công Xuân Lộc. Nếu
chúng ta chiếm giữ Ngã Ba Dầu Giây thì
Xuân Lộc không còn là một trọng điểm nữa,
vì nó đã nằm ngoài chu vi phòng thủ.
Từ đó, chúng ta có thể thực hiện hai cuộc chuyển
quân: Một là, tập trung sức tấn công vào Dầu
Giây từ hai hướng. Hai là, chúng ta rút
quân ra khỏi Xuân Lộc”. Rất ngán sợ hỏa lực của
Không Quân Việt Nam, Trà lệnh cho các đơn vị
pháo 130 ly âm thầm di chuyển vào sát phi
trường Biên Hòa trong tầm với tới của pháo, với
ý đồ phá hủy phi trường Biên Hòa hay
ít nhất quấy rối bằng pháo kích đến tối đa để ngăn
chận đoàn phi cơ của quân ta cất cánh yểm trợ cho
mặt trận Long Khánh và Dầu Giây. Sau cuộc họp,
các đơn vị cộng quân lục tục rút quân dần dần
ra khỏi vị trí hiện tại. Dĩ nhiên những cuộc di chuyển
đó không qua khỏi sự quan sát chặt chẽ của những
toán Viễn Thám nằm sâu trong lòng địch
báo về. Quân Đoàn 4 rút ra khỏi Xuân
Lộc thì Chuẩn Tướng Đảo điều động các đơn vị bám
sát theo sau, đồng thời nhân cơ hội đó 8 chiếc trực
thăng Chinook đã đem vào Xuân Lộc 93 tấn đạn
pháo, 100 tấn lương thực thuốc men và đạn súng
nhỏ.
Trong
vòng năm ngày Sư Đoàn 18 Bộ Binh đánh thắng
được sáu cuộc tấn công cường kích của Quân
Đoàn 4 Bắc Việt, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Graham
Martin hân hoan gọi về Washington báo tin Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa đã đánh thắng hai trận đầu
tiên, một tại Xuân Lộc và một tại Thủ Thừa, Long An,
sau những ngày triệt thoái. Sự kiện đó đã
trả lời hùng hồn câu hỏi từ chính giới Hoa Kỳ, rằng
liệu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có chịu chiến đấu
hay không. Với báo cáo này, ông Martin
hy vọng Tổng Thống Gerald Ford có được yếu tố thuận lợi để
yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chấp thuận khoản quân viện bổ sung
722 triệu mỹ kim cho năm 1975. Tổng Thống Ford đã xác
nhận mạnh mẽ trước Lưỡng Viện Quốc Hội:”Quân Đội Nam Việt Nam rất
muốn chiến đấu. Tại Xuân Lộc, mặc dù quân số
ít hơn, nhưng Quân Đội Nam Việt Nam đã chiến đấu
rất anh dũng, đã giữ vững vùng đất của họ và
đã gây thiệt hại nặng nề lên quân địch...”
Những minh chứng rõ ràng đó đã không
thuyết phục được những nhà chính trị Hoa Kỳ đã
quá mỏi mệt, thiếu kiên nhẫn và không
áp đảo được khuynh hướng phản chiến lẫn chủ bại trong Quốc Hội,
mà Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits là đại diện cho tất cả
những cái đó, với câu trả lời rất lạnh lùng,
trịch thượng và tàn nhẫn ngày 14.4.1975:”Tôi
sẽ thuận cho quý ngài một ngân khoản lớn để tổ chức
cuộc di tản, nhưng không một xu quân viện nào cho
Thiệu”. Số phận Việt Nam Cộng Hòa coi như đã được những
nhà chính trị kiêu ngạo ấy đánh dấu chấm hết
từ ngày 14.4.1975. Hành động phủi tay đó rồi nhiều
năm sau sẽ bị công luận thế giới phân tích và
phê phán nặng nề, đến nỗi người ta đã đi đến kết
luận không lấy gì làm vinh dự và đẹp đẽ lắm
dành cho chính giới Hoa Kỳ, rằng kết đồng minh với Hoa Kỳ
có nghĩa là chắc chắn sớm hay muộn sẽ bị bỏ rơi. Nhưng
đó là việc của người Mỹ. Dù có nhận được
quân viện hay không thì quân dân Việt
Nam Cộng Hòa vẫn xác quyết: chiến đấu đến cùng.
Mặt trận Long Khánh tiếp tục nổ lớn.
Trong những
ngày tình hình tạm lắng dịu, chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa muốn cho thế giới hiểu rõ tường tận hơn
ý chí quyết chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa và bối cảnh chiến thắng ở Xuân Lộc của Sư
Đoàn 18 Bộ Binh, đã tổ chức một cuộc thăm viếng tỉnh lỵ
này dành cho giới báo chí truyền
thông trong và ngoài nước. Buổi sáng rất đẹp
trời ngày 13.4.1975, nhiều chiếc Chinook đã chở những
ký giả ngoại quốc vào Xuân Lộc. Phái
đoàn được thả xuống tại Tân Phong, một vị trí
dùng làm Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Chuẩn
Tướng Đảo. Tại đây, giới báo chí được mời ngồi nghe
người dũng tướng nước Nam, cây cột trụ chống đỡ đất nước giữa cơn
nghiêng ngã, thuyết trình diễn tiến trận
đánh. Người hùng Xuân Lộc đã quả quyết
tuyên bố:”Sư Đoàn 18 Bộ Binh sẽ giữ vững Xuân Lộc,
dù cộng sản có ném vào đây bao
nhiêu sư đoàn đi nữa”. Lời xác quyết can cường
đó đã được chứng minh bằng cuộc thối quân của
toàn Quân Đoàn 4 Bắc Việt trong những ngày
tiếp theo. Theo Quốc Lộ 1, đoàn ký giả tiến vào
thành phố. Họ đã chứng kiến và chụp hình,
quay phim cảnh đổ nát của phần phía Bắc Xuân Lộc.
Sau khi Đại Tá Phạm Văn Phúc thuyết trình diễn
biến chiến sự trong năm ngày qua, Đại Tá Lê
Xuân Hiếu, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 hướng
dẫn phái đoàn đi bộ vào khu chợ Xuân Lộc
và đến địa điểm triễn lãm vũ khí tịch thu được từ
quân cộng sản. Cuộc thăm viếng của đoàn nhà
báo quốc tế đã đem lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam Cộng
Hòa trong sự chú ý của dư luận quốc tế. Tuy
nhiên trong những ngày ảm đạm cuối cùng của
tháng 4.1975 ấy, những bài báo ngợi ca chiến thắng
của Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ còn là những ánh
hào quang lẻ loi trước khi toàn quân lực bị bức tử
trong sự ngoảnh mặt làm ngơ của thế giới.
Đánh
Xuân Lộc không được, giờ đây Quân Đoàn 4
Bắc cộng tập trung quân đánh vào khu vực Ngã
Ba Dầu Giây, là vị trí trách nhiệm trấn giữ
thuộc Trung Đoàn 52 Bộ Binh của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng.
Muốn đi vòng Xuân Lộc để tiến về Biên Hòa
và Sài Gòn, thì Quân Đoàn 4
cộng quân phải đánh bứt các vị trí của Trung
Đoàn 52, để từ đó theo Quốc Lộ 20 tuôn xuống
phía Nam. Đại Tá Dũng và chiến sĩ của ông ở
trong một tình thế thật hung hiểm, số ít đối đầu với số
đông đã đành, mà địa thế khá
là bằng phẳng và trống trãi ở khu vực trách
nhiệm rất không thuận lợi cho một cuộc phòng thủ lâu
dài. Phía cộng sản, với giá nào
chúng cũng phải đánh thủng chiến tuyến, dù
có phải thí quân tàn bạo đến như thế
nào đi nữa. Ngày 13.4, trận đại chiến giữa Trung
Đoàn 52 và quân cộng bắt đầu tái diễn. Vẫn
một trận bão pháo kinh khủng trút vô giới
hạn xuống vị trí của Tiểu Đoàn 1/52 . Dứt pháo,
Trung Đoàn 33 cộng quân thuộc Sư Đoàn 6 Bắc Việt
hò hét xung phong biển người lên giao thông
hào của chiến sĩ Tiểu Đoàn 1/52 đang trấn giữ ấp Phan Bội
Châu. Quân ta vừa chống trả vừa lùi dần về
phía Ngã Ba Dầu Giây. Đại Tá Dũng lệnh cho
Tiểu Đoàn 3/52 của Thiếu Tá Mỹ cấp tốc hành
quân đến giải vây cho Tiểu Đoàn 1/52, rồi
cùng kéo về ấp Nguyễn Thái Học. Nóng
lòng cuộc tử sinh của chiến hữu, hai đại đội còn lại của
Tiểu Đoàn 3/52 suốt đêm lầm lũi xuyên qua những
cánh rừng lá thấp bụi rậm giăng mắc, để cuối cùng
bắt tay được với 1/52. Hai tiểu đoàn quân số đã sụt
xuống con số đau lòng, chỉ còn 1/3 số tay súng
khỏe mạnh, cùng bảo vệ nhau kéo ra khỏi Ngã Ba Dầu
Giây, trong khi đó thì Tiểu Đoàn 2/52
đã tách ra khỏi Trung Đoàn để về trấn giữ tỉnh lỵ
từ mấy ngày trước theo lệnh của Chuẩn Tướng Đảo. Như vậy, Đại
Tá Dũng chỉ có thể xoay sở với hai tiểu đoàn thiếu
của ông để chống ngăn cơn sóng hung bạo của cả một sư
đoàn lên đến 9 tiểu đoàn.
Hoạt động của
Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn III
Lực Lượng Xung
Kich Quân Đoàn III của Chuẩn Tướng Khôi vẫn
còn dậm chân tại Hưng Lộc, vì những chiến xa M48
của Kỵ Binh không thể dàn được đội hình đột
phá trên con lộ độc đạo. Nếu đánh thủng Hưng Lộc,
thì Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh của ông mới có thể
tiếp cứu được Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Chuẩn Tướng Khôi
quyết định đánh bọc hông Sư Đoàn 6 bằng cách
điều động Chiến Đoàn 315 và 322 lên phía Bắc
Hưng Lộc. Chiến Đoàn 325 được tổ chức thành hai
cánh quân như sau. Cánh A vẫn tiến quân
trên Quốc Lộ 1 thu hút sự chú ý của
quân cộng ở mặt Nam. Cánh B gồm Tiểu Đoàn 64 thuộc
Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân và Chi
Đoàn 1/15 dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Phạm Văn Bản, với
nhiệm vụ húc qua chốt cộng và bắt tay với Trung
Đoàn 52 tại ấp Nguyễn Thái Học. Đến giữa trưa ngày
14.4.1975, cánh quân của Đại Úy Bản đã
xông lên tiến chiếm được Đồi 122 , cao điểm phía Bắc
Hưng Lộc, và sẵn sàng tiến tới nữa. Thật không may,
nhiều con suối đã chận ngang đường đi, Đại Úy Bản buộc
phải cho con cái tạm dừng chờ Công Binh lên bắc cầu.
Sự chậm trễ này đã hiến cho Sư Đoàn 6 cộng sản cơ
hội phát hiện được cuộc tiến quân bí mật của Chuẩn
Tướng Khôi, chúng vội điều quân tới chận đánh
Cánh B từ ba hướng Bắc, Đông và Tây. Chiến sĩ
Tiểu Đoàn 64 Mũ Nâu dàn quân kháng cự
ác liệt để bảo vệ đoàn chiến xa của quân ta.
Quân giặc trùng điệp tràn lên như những bầy
kiến đỏ hung dữ. Cuộc chiến đấu của quân ta càng
lúc càng khó khăn, sức nặng của hỏa lực và
biển người càng lúc càng chồng chất lên vai
chiến sĩ Biệt Động Quân và Kỵ Binh. Đại Úy Bản
đã kể lại:”Địch quân tiến tới đông nghẹt như một bầy
kiến, phóng ra nhiều đợt biển người lên đồi từ ba hướng.
Trong tình thế nguy ngập đó, tôi đã gọi Bộ
Chỉ Huy Chiến Đoàn yểm trợ hỏa lực phi pháo. Nhưng tất cả
hỏa lực gửi đến chỉ là một vài chiếc trực thăng võ
trang bắn vài loạt hỏa tiễn rồi bay đi... Cường độ tấn
công của cộng quân càng mãnh liệt dần
lên. Tôi tưởng rằng quân ta sẽ bị tràn ngập
trên Đồi 122, hay bị bao vây và bị cô lập
hoàn toàn... Bỗng nhiên Việt cộng rút lui,
cuộc giao tranh chấm dứt... Phía chúng tôi
có 20 chiến sĩ bị thương, Biệt Động Quân gần 40...
Còn xác Việt cộng nằm la liệt khắp cánh đồng
lúa “. Mặc dù cộng quân đã thôi tấn
công Đồi 122, nhưng ý định đánh vào mạn sườn
Bắc quân địch của Chuẩn Tướng Khôi đã không
thành công và bị khựng lại, phần lớn là do
địa hình ngăn trở.
Những
chuyên viên Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu
Trong cuộc chiến
đấu bảo vệ Xuân Lộc, còn có những đóng
góp rất âm thầm của nhóm công tác gồm
20 nhân viên đặc biệt từ Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu
đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Các chiến sĩ
này làm việc suốt ngày đêm để dò
sóng truyền tin địch và giải mã những bức điện
văn. Nhờ đó quân ta biết được ý định hành
quân, nơi tập trung bộ đội và báo cáo
tình hình quân số của địch trên khắp chiến
trường. Nhờ những dữ kiện đó mà Bộ Tổng Tham Mưu
có được chi tiết chính xác để gửi một chiếc C130
chở một trái bom 15,000 cân Anh (tương đương 7.000
kí) có tên là Daisy Cutter bỏ xuống vị
trí nghi ngờ là Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn 4 Bắc
Việt cùng với một trung đoàn bảo vệ đóng
quân gần đó. Cũng nhóm Phòng 7 sau đó
đã bắt được sóng địch báo cáo 75% Bộ Chỉ
Huy Quân Đoàn 4 Bắc Việt đã bị hủy diệt. Vẫn chưa
hết, hàng ngày từ 8 đến 12 chiếc C130 trong chiến dịch
Flame Wafare (Hỏa Chiến) do sáng kiến của Không Quân
Việt Nam, đã chở những cái bè gỗ trên
đó chất những thùng cỡ 200 lít dầu và hơi
cháy trút xuống các đơn vị địch, tạo nên
những cơn sóng chấn động và lửa nóng chẳng
kém gì bom lửa Napalm. Tiếng nổ liên hồi ầm ầm của
những loạt bom đó rất giống tiếng bom B52 , đã làm
cho Hà Nội phải la làng inh ỏi, rằng Không
Quân Hoa Kỳ “chơi” bom sát thương hàng loạt loại
mới. Còn phía quân dân tử thủ Xuân Lộc
thì hò reo hân hoan cho là B52 đã
nhập cuộc. Khi biết rõ những cuộc dội bom ấy xuất phát từ
Không Quân Việt Nam, chiến sĩ dưới đất đã gọi
đó là những “B 52 Việt Nam”.
Trung
Đoàn 52 Bộ Binh đánh địch
Dù bị
Không Quân Việt Nam dội bom Daisy Cutter và bom
“B-52 Việt Nam”, nhưng quân cộng vẫn bám cứng khu vực
Trung Đoàn 52 Bộ Binh, đồng thời gấp rút điều động
Liên Đoàn 75 Pháo Binh pháo kích phi
trường Biên Hòa liên tục nhằm vô hiệu
quá sức mạnh của Không Quân. Đồng thời đặc
công địch đã bò vào phá hủy được kho
đạn trong phi trường. Hai sự kiện đó quả thật đã
gây trở ngại lớn cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đặc biệt tại
tuyến Dầu Giây. Rạng sáng ngày 15.4.1975, Trung
Đoàn 33 và Trung Đoàn 95B Sông Hương
còn nguyên vẹn sinh lực của Sư Đoàn 6 cộng sản mở
cuộc tấn công vào ấp Nguyễn Thái Học và Đồi
Móng Ngựa. Trên Đồi Móng Ngựa Đại Úy Mạch
Mạnh Liêu và đại đội của ông vẫn xác định
quyết tâm giữ vững vị trí, mặc dù quân số đại
đội đã hao hụt quá nhiều mà không có
bổ sung. Trung Đoàn 33 và 95B là hai trung
đoàn thiện chiến rất kỳ cựu của địch, chúng hoạt động
thường xuyên trên vùng Tây Nguyên
và đã giao tranh nhiều trận rất lớn với Quân
Đoàn II của ta nhiều năm trước đây. Trung Đoàn 33
Bắc Việt được dùng làm thành phần chủ yếu cấu
thành Sư Đoàn 6 tân lập của cộng sản trong chiến
dịch tấn công của năm 1975. Nhiều ngàn trái đạn đủ
loại dội ùng oàng ác liệt xuống khắp vị trí
của Trung Đoàn 52 Bộ Binh. Sau cơn pháo, Trung
Đoàn 33 Bắc Việt tiến chiếm được Ngã Ba Dầu Giây
và định đánh bứt ấp Nguyễn Thái Học. Nhưng với sự
có mặt của Cánh B Chiến Đoàn 315 trên Đồi
122, Trung Đoàn 33 cộng quân buộc phải chuyển sang đối
phó với lực lượng này. Trung Đoàn 95B tổ chức ba
cuộc tấn công lên Đồi Móng Ngựa. Với một đại đội
mà quân số đã dần hao mòn, nhưng chiến sĩ
Trung Đoàn 52 Bộ Binh đã dũng liệt đánh văng xuống
đội trung đoàn thiện chiến nhất của địch. Dù vậy, Đại
Tá Ngô Kỳ Dũng vẫn cẩn thận gửi tăng viện Đồi Móng
Ngựa một đại đội nữa. Đại đội trấn giữ Đồi Móng Ngựa đã
được đại đội bạn mang vác tiếp liệu đến bổ sung và tiếp
tay di tản các chiến thương. Những sĩ quan cùng chung
trong Trung Đoàn cảm khích siết chặt tay nhau thề
cùng sống chết trên ngọn đồi thấp này.
Chẳng lâu
la gì, Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 95B Việt cộng
xua quân biển người tràn lên đồi. Một đại đội tử thủ
chúng còn không lên nổi, giờ đây
thêm một đại đội nữa, chiến sĩ Trung Đoàn 52 dễ
dàng đánh Tiểu Đoàn 2/95B địch lăn lộn xuống
chân đồi. Một tiểu đoàn thứ hai âm thầm men theo
Quốc Lộ 20 định đánh vào sườn quân ta trên
đồi, thì đã bị Pháo Binh dội những tràng
đạn tập trung chết chóc xuống làm chúng phải thối
lui.
Khi Chiến
Đoàn 315 của Lữ Đoàn 3 Xung Kích đã bị
khựng lại, thì cộng quân bắt đầu mở cuộc đột phá
vào ấp Nguyễn Thái Học do các đại đội còn
lại của Tiểu Đoàn 3/52, Chi Đoàn 3/5 Kỵ Binh và
các thành phần khác của Trung Đoàn 52 Bộ
Binh. Cộng quân đánh quá dữ, bằng mọi giá
chúng phải bứng được quân ta ra khỏi khu vực Ngã Ba
Túc Trưng nằm chặn trên Quốc Lộ 20 và Ngã Ba
Dầu Giây trên Quốc Lộ để Quân Đoàn 4 Bắc Việt
tiến về Sài Gòn. Quân ta cũng không chịu
rút, dù càng lúc quân số càng
hao hụt. Nhiều chiến sĩ bị thương hai ba lần, nhưng người nào
còn cầm súng được vẫn cứ nghiến răng tựa lưng vào
chiến hào tử chiến với giặc Cuộc giao tranh quá đỗi khốc
liệt ấy kéo dài liên tục trong mười tiếng đồng hồ,
tiếng đạn pháo hai bên nổ rền trời. Đến lúc
mà quân số của toàn Trung Đoàn đã sụt
xuống con số đau thương là chỉ còn 20% tay súng,
Đại Tá Dũng đành phải ra lệnh cho chiến sĩ trên Đồi
Móng Ngựa ngay trong đêm phải rút xuống và
trở về với Tiểu Đoàn 3/52. Khoảng 6 giờ rưỡi chiều, Đại
Tá Dũng chia lực lượng rách nát của ông
thành hai nhóm. Đích thân Đại Tá Dũng
dẫn một nhóm bộ binh và Kỵ Binh thoát ra khỏi rừng
cao su. Nhóm thứ hai là Tiểu Đoàn 3/52 theo một
hướng thoát thân. Với kinh nghiệm hành quân
nhiều năm trong khu vực tỉnh Long Khánh, cả hai nhóm
quân của Trung Đoàn 52 len lỏi giữa những vị trí
đóng quân của địch và đã về đến được Trảng
Bom an toàn.
Mặt trận Long
Khánh đã thiếu vắng một đơn vị thiện chiến, Sư
Đoàn 18 Bộ Binh giờ đây phải tự điều chỉnh trận liệt với
Trung Đoàn 43 và Trung Đoàn 48, cộng thêm Lữ
Đoàn 1 Nhảy Dù và Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân. Tin Phan Rang thất thủ chẳng mấy chốc đã bay đến
Xuân Lộc. Sư Đoàn 341 cộng quân thôi
không đánh Xuân Lộc, chúng di chuyển
lên hướng Bắc tấn chiếm được Kiệm Tân và Túc
Trưng, song song với những cơn pháo mãnh liệt vào
phi trường Biên Hòa. Như vậy ý định cô lập Sư
Đoàn 18 Bộ Binh ra khỏi chu vi phòng thủ của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa của Quân Đoàn 4 Bắc Việt
đã dần dần thành hình. Một tin tức không vui
khác đến từ đất nước Hoa Kỳ. Ngày 17.4.1975, Quốc Hội Mỹ
đã chính thức bác bỏ khoản quân viện 722
triệu đô la cho Việt Nam Cộng Hòa. Có nghĩa
là Việt Nam Cộng Hòa phải tự lực xoay sở cứu lấy
mình, Hoa Kỳ đã hoàn toàn phủi tay đứng
ngoài cuộc. Thật mỉa mai. Mười hai năm về trước của năm 1975 ,
Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị sát hại
vì không chấp thuận sự hiện diện của quân đội Mỹ.
Mười hai năm về sau của năm 1963, chẳng ai xua đuổi mà
quân đội Mỹ vẫn cứ ung dung rút chạy ra khỏi Việt Nam.
Trung Tướng
Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Đoàn III &
Quân Khu III trong một nỗ lực cuối cùng ngăn chận
đoàn quân giặc sắp sửa tràn xuống Sài
Gòn, đã điều động Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn
5 Bộ Binh, dưới quyền của Trung Đoàn Trưởng Trung Tá
Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng viện Lực Lượng 3 Kỵ Binh Xung
Kích. Trung Tá Hùng cùng Trung Đoàn
8 Bộ Binh đang giữ thị trấn Phú Giáo ở phía Bắc
căn cứ Lai Khê, bản doanh của Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Trung
Tá Hùng từng là Trung Đoàn Trưởng Trung
Đoàn 43 Bộ Binh, nên ông rất quen thuộc thông
thổ Long Khánh. Nhưng khi ông được cử đi học khóa
Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ từ năm 1972 cùng với Chuẩn Tướng
Khôi, thì Đại Tá Lê Xuân Hiếu lên
thay. Trung Tá Hùng xuất thân từ binh chủng Nhảy
Dù, ông từng chỉ huy hai Đại Đội Dù tấn công
vào Dinh Độc Lập ngày 1.11.163 để lật đổ Tổng Thống
Ngô Đình Diệm. Khi được gọi về trình diện Trung
Tướng Toàn nhận nhiệm vụ đánh Dầu Giây, Trung Tướng
Toàn hỏi Trung Tá Hùng chỉ huy Trung Đoàn 8
được bao lâu rồi. Chuẩn Tướng Đảo và Chuẩn Tướng
Khôi cùng có mặt lúc đó đã
dành nhiều lời nồng hậu cho Trung Tá Hùng,
nên Trung Tướng Toàn vui vẻ thăng cấp ngay lên Đại
Tá cho ông. Nhưng vì trong văn phòng Tư Lệnh
Quân Đoàn lúc đó chỉ có ba ông
Tướng, nên sĩ quan tùy viên phải chạy ra
ngoài tìm lon mới cho vị Đại Tá tân thăng.
Khi Trung Đoàn 8 đến Hưng Nghĩa trên những chiếc GMC, Đại
Tá Hùng nhận lệnh Chuẩn Tướng Khôi chỉ huy
luôn Chiến Đoàn 322, với nhiệm vụ đánh thông
Quốc Lộ 1. Mặc dù Đại Tá Hùng cùng Chiến
Đoàn 322 cố gắng mở cuộc đột phá rất quyết liệt
xông qua ấp Hưng Nghĩa và Hưng Lộc, Chiến Đoàn của
Đại Úy Bản đánh từ Đồi 122, nhưng Trung Đoàn 95B
cộng sản kháng cự dữ dội, quân ta không qua được,
vì vậy mà Trung Đoàn 95B bị thiệt hại quá
nặng, buộc Sư Đoàn 341 phải trở lại thay thế nó.
5.
Phần 5
Triệt
thoái khỏi Xuân Lộc
Cuộc
quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 Bắc Việt và Sư
Đoàn 18 Bộ Binh diễn ra thật đẫm máu từ ngày
10.4.1975 đến ngày 13.4.1975, với phần thắng nghiêng về
phía chiến sĩ Cung Tên Miền Đông. Nhưng Quân
Đoàn 4 giặc vẫn tiếp tục dùng pháo binh quấy rối
quân ta ngày đêm. Từ ngày đó,
quân dân Xuân Lộc không còn đương đầu
với bộ binh địch nữa, mà chỉ nằm chịu pháo. Một tuần tiếp
theo sau là trận đánh giữa Lữ Đoàn 1 Dù
và Tiểu Đoàn 8 Bắc Việt. Quân Dù đã
dần dần thắt chặt vòng vây kẹp tiểu đoàn địch trong
khu vực đồn điền Đại Tướng Tỵ để dứt điểm nó.
Ngày
19.4.1975, Sư Đoàn 7 Bắc Việt trong cố gắng giải cứu Tiểu
Đoàn 8, đã gấp rút tung vào chiến trường
Trung Đoàn 141 trừ bị. Bộ phận dò sóng của
chuyên viên Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu báo
lên Chuẩn Tướng Đảo nội dung nghe được rất thú vị như
sau:”Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 141 đích
thân lên máy vô tuyến thúc giục
bô đội xông lên đánh quân Dù,
nhưng cán binh Trung Đoàn 141 nghe nói đánh
Nhảy Dù, đã sợ hãi không dám
lên. Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ cán binh, rằng
quân Nhảy Dù bây giờ đánh không
còn “ngon” như hồi trước nữa”. Biết được nỗi dao động của
cán binh Trung Đoàn 141 cộng quân khi đối đầu với
chiến sĩ Dù, Chuẩn Tướng Đảo thông báo cho Trung
Tá Đỉnh, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù biết
trước cuộc tấn công này. Nên khi quân 141 xuất
hiện trước chiến tuyến, chiến sĩ Mũ Đỏ chuẩn bị sẵn trận thế, đã
xác minh lời của Trung Đoàn Trưởng 141 khuyến dụ
cán binh, rằng lính Dù đánh không
còn “ngon” là hoàn toàn dối trá.
Cuộc giao tranh giữa Lữ Đoàn 1 Dù và Sư
Đoàn 7 còn đang dằng dai, thì Bộ Tổng Tham Mưu
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhận được tin Quân
Đoàn 2 Bắc Việt và Sư Đoàn 325 đã
vào tới Rừng Lá, cách Xuân Lộc 20 cây
số về hướng Tây. Như vậy Biên Hòa rồi đến Sài
Gòn sẽ nằm dưới áp lực rất nặng của quân cộng.
Lúc 9 giờ sáng ngày 20.4.1975, Trung Tướng
Toàn và Chuẩn Tướng Trần Đình Thọ, Trưởng
Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu bay vào Xuân Lộc ban lệnh
rút quân về chống giữ Biên Hòa. Con đường
được chọn lựa triệt thoái sẽ là Liên Tỉnh Lộ 2 ở
phía Nam Xuân Lộc. Theo kế hoạch của Trung Tướng
Toàn, một khi Sư Đoàn rút ra khỏi Xuân Lộc
an toàn, thì đoàn GMC sẽ đưa toàn
quân số về Căn Cứ Long Bình để nghỉ ngơi vài
ngày, bổ sung quân số và tái trang bị.
Cuộc
quyết chiến giữa Quân Đoàn 4 BV và Sư Đoàn
18 Bộ Binh đã diễn ra khốc liệt từ ngày 9 đến 21.4.975,
hai bên đều bị tổn thất nặng, nhưng phần thắng cuối cùng
đã nghiêng về phía Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa. Theo ước lượng của Thiếu Tướng Đảo về sau này,
thì phía cộng quân bị giết chết đến 10,000 người,
một con số quá cay đắng chưa từng thấy trong một thời gian
quá ngắn. Cơn chiến bại này coi như là một vết hằn
trong cuộc đời binh nghiệp của Thiếu Tướng Hoàng Cầm.
Đích thân Tướng Trần Văn Trà xuống “chi viện” cho
Hoàng Cầm. Nhưng chính Trà sau khi suy tính
nát nước, không thấy một chút le lói hy vọng
chiến thắng nào, dù Trung Đoàn 52 của quân
ta đã bị tổn thất rất nặng phải rút về Biên
Hòa trước, đã không dám đánh SĐ18BB.
Trà buộc lòng cho lệnh Quân Đoàn 4 bỏ
Xuân Lộc đi vòng về Biên Hòa theo hướng Quốc
Lộ 15, chỉ để các đơn vị của Sư Đoàn 7 ở lại bao
vây và quấy rối Xuân Lộc. Sau này khi viết
hồi ký, thì Trà lại tự cho là mình
đã “phát huy sáng kiến” đánh bọc
vòng xuống Biên Hòa, nhưng chúng ta nhớ lại
trước khi mặt trận Xuân Lộc nổ, cũng chính Trà
đã thúc giục “anh Ba” Lê Duẫn cho quân giải
phóng đánh Xuân Lộc trước. Cả Trà và
Cầm đều là bại tướng, nếu cách chức thì phải
cách chức cả hai tướng này, chứ không phải
riêng trách nhiệm của Cầm.
Vì
các quân đoàn của địch tránh né Sư
Đoàn 18 Bộ Binh đi vòng theo hướng Quốc Lộ 20 và
Quốc Lộ 15 xuống đánh Biên Hòa, nên nhiệm vụ
bảo vệ Xuân Lộc của sư đoàn cũng chấm dứt. Đồng thời Chiến
Đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi
đang đánh địch tại Ngã Ba Dầu Giây cũng được lệnh
kéo quân về bảo vệ thành phố này. Với hai
lực lượng rất mạnh tử thủ Biên Hòa, một lần nữa tướng
tá giặc lại kéo nhau đi vòng, bỏ Biên
Hòa và tiến thẳng về Sài Gòn. Để đem được
toàn bộ sư đoàn và các đơn vị biệt
phái ra khỏi Xuân Lộc, là một công tác
cực khó khăn, đòi hỏi một kế hoạch tỉ mỉ và
kiên quyết. Một lần nữa, người ta lại thấy tài năng
lãnh đạo và chỉ huy của những vị tướng trẻ QLVNCH trong
những trường hợp dầu sôi lửa cháy như thế này. Để
đánh lạc hướng Sư Đoàn 7 BV, Lữ Đoàn 1 Nhảy
Dù nhận nhiệm vụ đánh cầm chân chúng để cho
toàn bộ SĐ18BB rút đi trước. Kể từ 8 giờ tối đêm
20.4.1975, Trung Đoàn 48 của Trung Tá Trần Minh
Công và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh của Trung Tá
Nô chịu trách nhiệm mở đường theo Liên Tỉnh Lộ 2 về
hướng tỉnh Phước Tuy. Rồi đến đoàn cơ giới gồm Pháo Binh,
Quân Vận, Công Binh, các đơn vị Tiếp Vận
khác, hai khẩu 175 ly, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Hứa
Yến Lến, Tham Mưu Trưởng sư đoàn. Khi đoàn Pháo
Binh di chuyển đến Long Giao, một căn cứ cũ của Hoa Kỳ, thì Đại
Tá Hưng, Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh sư đoàn sẽ thiết
trí một căn cứ hỏa lực tạm thời để yễm trợ hỏa lực cho
toàn cuộc di tản, với sự bảo vệ cương quyết của Đại Đội 18 Trinh
Sát dũng mãnh. Ở khoảng giữa sẽ là các đơn
vị Địa Phương Quân & Nghĩa Quân Long Khánh dưới
quyền Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng, cùng với
số đồng bào còn kẹt lại trong thị xã. Các
đơn vị thuộc Trung Đoàn 43 của Đại Tá lê Xuân
Hiếu và Tiểu Đoàn 82 của Thiếu Tá Vương Mộng Long
chịu trách nhiệm đoạn hậu. Tất cả đơn vị đều di chuyển trong
đêm 20.4.1975. Đó là chưa kể Tiểu Đoàn 2/43
của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế vẫn còn đang trấn giữ
trên Núi Thị và phải rút sau cùng.
Khi
Lữ Đoàn 1 Dù của Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh
rút lui, thì Tiểu Đoàn 2/43 là tiểu
đoàn đơn độc còn sót lại, Chuẩn Tướng Đảo phải bay
trên trực thăng hướng dẫn hướng hành quân cho tiểu
đoàn này rút theo sư đoàn trong ngày
hôm sau. Trong suốt cuộc hành quân triệt
thoái, Chuẩn Tướng Đảo và các sĩ quan thuộc Bộ Tư
Lệnh đều cùng di chuyển bộ với binh sĩ, đặc biệt Tướng Đảo đi
lên đi xuống dọc hàng quân để khích lệ
và nhắc nhở chiến sĩ luôn cố gắng bảo vệ đồng bào
trong đoàn. Một chiếc trực thăng chỉ huy C&C bay trên
bầu trời với Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, để giúp Tướng Đảo
liên lạc và điều hợp đoàn di tản. Lữ Đoàn 1
Dù và Tiểu Đoàn 2/43 ở vào một tình
thế cực kỳ nguy hiểm, rất giống như cuộc di tản Hạ Lào 719 năm
1971. Sư Đoàn 7 BV khám phá dù muộn
màng cuộc triệt thoái, Trung Đoàn 141 đã
hành quân đuổi theo chận đánh và phục
kích quân Mũ Đõ dữ dội. Lữ Đoàn 1
Nhày Dù nhận nhiệm vụ chận hậu cho đoàn quân
triệt thoái đã đụng độ nặng với Trung Đoàn 141
cộng sản tại Bảo Định và chịu tổn thất. Thật đau lòng,
tất cả tử sĩ và chiến sĩ bị thương nặng đều không thể
cáng theo được. Con đường dài đến 40 cây số
xuyên qua những cánh rừng cao su thâm u dầy đặc
quân cộng, giống như một cuộc hành trình đi qua cửa
địa ngục. Những tấn thảm kịch đầy máu và nướ c mắt sao cứ
mãi đeo đẳng lên đôi vai còm cõi của
người lính chúng ta như một định mệnh tàn nhẫn.
Vẫn chưa hết, khi đoàn Mũ Đỏ ra đến Quốc Lộ 1 lúc 9 giờ
đêm, thì một cảnh tưởng xúc động đến nát
lòng đang chờ đón các anh. Hàng ngàn
gia đình đồng bào ở những ấp Bảo Định, Bảo Toàn,
Bảo Hòa lển mển hành trang, tay bồng tay bế tập trung hai
bên đường xin được đi theo quân ta. Nhiệm vụ đánh
hậu còn oằn nặng chưa xong, giờ đây chiến sĩ Lữ
Đoàn 1 Nhảy Dù phải bảo vệ sinh mạng của những đồng
bào ruột thịt của các anh. Đồng bào không
bao giờ chấp nhận cộng sản, dù có phải bỏ hết nhà
cửa, tài sản khó nhọc chắt chiu từ nhiều chục năm, nhưng
để được tự do, thì người dân sẵn sàng cùng
dấn thân với người lính Việt Nam Cộng Hòa
trên bất cứ con đường khổ ải nào.
Đoàn
quân và dân lẫn lộn xen kẻ nhau kéo đi lầm
lũi trong đêm tối hãi hùng. Từ Tân Phong,
đoàn người khốn khổ đến được Đức Thành. Tiểu Đoàn
3 Pháo Binh Dù được Đại Đội 1 Trinh Sát Dù
bảo vệ là đơn vị duy nhất đi trên con lộ 2 hoang phế.
Các Tiểu Đoàn 1, 2, 8 và 9 Dù rải
quân đi sâu vào hai rừng cao su bể bảo vệ
đoàn quân dân trên mặt lộ. Khoảng 4 giờ
sáng rạng ngày 21.4.1975, Pháo Đội C của Tiểu
Đoàn 3 Pháo Binh và một Trung Đội Trinh Sát
lọt vào ổ phúc kích của hai tiểu đoàn giặc
tại ấp Qui Ca gần ranh giới hai tỉnh Long Khánh - Phước Tuy.
Quân giặc đã hò hét xung phong biển người
lên tràn ngập cánh quân này.
Quân ta đã tận lực chống trả đến người cuối cùng.
Nhưng nhờ sự hy sinh cao cả này mà đoàn quân
dân lọt đến được khu vực núi Cấm Tiên, để ở
đây, Tiểu Đoàn 9 Dù đánh một trận lừng lẫy
cuối cùng cho trang chiến sữ đẫm máu và lệ của
binh chủng Dù, chịu chết chóc để đưa được đoàn
quân dân về đến được Phước Tuy bình yên.
Hồi
tưởng lại những ngày chiến đấu ở Xuân Lộc và cuộc
triệt thoái trên Liên Tỉnh Lộ 2, Đại Úy Nhảy
Dù Hoàng Văn Tuất, một Trung Đội Trưởng thuộc Tiểu
Đoàn 9 Nhảy Dù đã kể lại trong bài viết
Trận Chiến Cuối Cùng Của Tiểu Đoàn 9 Dù như sau.
Đại Úy Hoàng Văn Tuất xuất thân Khóa 9/68,
tốt nghiệp Khóa 5 Huấn Luyện Viên, Tổng Cục Quân
Huấn. Khi lên cấp Trung Úy một thời gian, anh xin
thuyên chuyển về Sư Đoàn Nhảy Dù để thỏa chí
trai bốn phương ngang dọc,Trung Úy Tuất nhận một trung đội
và bắt đầu cuộc đời chiến trường đỏ lửa của anh. Theo Đại
Úy Tuất, một sĩ quan cấp Trung Úy trở xuống thuộc đơn vị
khác không phải xuất thân từ binh chủng Dù,
chỉ được nhận trung đội để quen dần với hệ thống chỉ huy và kỹ
thuật tác chiến của binh chủng Mũ Đỏ.
Nhớ
về các bạn Thiếu Úy Mỹ, Sơn và Đông.
Hồi
tưởng lại mùa xuân 1975 tại Đà Nẵng. Sau những
tháng năm dài đóng quân ngoài miền
hỏa tuyến, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù hậu cứ đặt tại
Đà Nẵng lệnh cho Tiểu Đoàn 9 Dù hàng
ngày tung những cánh quân nhỏ cấp Trung Đội
hành quân lục soát thường xuyên trên
các đỉnh đồi ( 400 hay 500 thước). Thật là bực bội
và khó chịu cho chúng tôi, nhưng phải
tuân hành. Cánh quân vũ bão
hàng đầu, sau trận chiến Thường Đức 1062, Quảng Nam, không
còn được dùng đúng chỉ số nữa. Sáng sớm đi
lục soát, đến chiều tối mới mò về, y hệt như những chiến
hữu Địa Phương Quân của Tiểu Khu Quảng Nam vậy. Đôi
lúc chúng tôi gặp nhau trên đường hành
quân, sau vụ Việt cộng pháo kích vào
thành phố và phi trường Đà Nẵng.
Vào
một ngày nắng đẹp, sau hai tuần lễ thay phiên nhau
trèo đèo lội suối, chúng tôi thay đồ đẹp
tính đi dạo phố, không ngờ lịnh trên cho chuẩn bị
hành trang gọn gàng và chờ đợi. Đổi vùng.
Lịnh chỉ có thế. Chúng tôi thực sự mừng rỡ, ở một
chỗ quá lâu không tốt và cũng là mục
tiêu cho bọn cộng sản nằm vùng dòm ngó. Tin
một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra trám chỗ cho
chúng tôi. Chúng tôi khăn gói cuốc bộ
đến phi trường. Nơi đây không khí nhộn nhịp hẳn
lên, những vận tải cơ C130 lên xuống không ngừng, cố
gắng hoàn tất nhiệm vụ là vận chuyển cả Lữ Đoàn
Dù xuôi Nam. Nghe tin tình hình vô
cùng xáo trộn và bi đát, rồi sẽ có
đảo chánh nữa, vì thế Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mới ra
lịnh cho đơn vị Dù về phòng thủ vòng đai an ninh
thủ đô. Vì không đủ máy bay nên Lữ
Đoàn 1 Dù phải chia làm đôi. Phân nửa
về bằng tàu, nửa kia về bằng máy bay. Tiểu Đoàn 8
và 9 Nhày Dù lên máy bay thẳng một
lèo về Sài Gòn, còn Tiểu Đoàn 1
Dù về bằng tàu Hải Quân đến Khánh
Hòa, thì có lịnh tấp vô bờ phụ với Lữ
Đoàn 2 Dù ở Khánh Dương.
Sài
Gòn thành phố thân yêu, dân
chúng vẫn tấp nập buôn bán, làm ăn sinh hoạt
bình thường hơn so với các nơi khác. Đơn vị rảnh
rang gửi binh sĩ qua học bổ túc chiến thuật, cũng như những ai
chưa có bằng Dù đều được về Trại Hoàng Hoa
Thám thụ huấn khóa Dù ngay. Chỉ vài
ngày sau thì Đà Nẵng mất, Thủy Quân Lục
Chiến gặp nguy, cố vùng vẫy và chiến đấu lẻ loi vì
không được đơn vị nào đến tiếp cứu, đành mở đường
máu cố gắng về Đà Nẵng rồi tìm phương tiện
xuôi Nam. Chợt nhớ đến Chiến, người bạn cùng khóa,
cùng trung đội, đã tình nguyện về Thủy Quân
Lục Chiến, mà trước khi mãn khóa một tuần
đã tự sắm bộ đồ bông xanh mặc vào đi khoe khắp Đại
Đội. Cầu nguyện cho nó được bình an.
Học
bổ túc cũng chỉ được vài ngày. Lúc bấy giờ
mặt trận Long Khánh đã bùng nổ rất ác liệt,
Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo của Sư Đoàn 18 và
các đơn vị dưới quyền của ông quyết không để một tấc
đất nào rơi vào tay bọn cộng sản. Tướng cộng sản giận dữ
tung thêm các sư đoàn thiện chiến vào định
giải quyết chiến trường mau lẹ, để rồi tiến thẳng vào Sài
Gòn càng sớm càng tốt như ý họ mong muốn.
Nhưng Bộ Tổng Tham Mưu của ta không để cho chúng được toại
nguyện, lịnh tung quân Dù vào trận chiến. Tiểu
Đoàn 9 Dù có tên trong danh sách nhập
trận. Chúng tôi đành bỏ khóa học Dù
nửa chùng. Đoàn GMC chở chúng tôi qua phi
trường Tân Sơn Nhứt, để rồi từ đó lại được các trực
thăng Chinook đưa vào Long Khánh. Nhìn vào
bản đồ mới lảnh sau khi họp với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, sao chấm
đỏ (cộng sản) ở đâu mà nhiều thế. Thiếu Úy
Khánh phụ tá cho Đại Úy Chỉ, sĩ quan Ban 3
kêu nhỏ chúng tôi lại một góc và dặn
dò:
-
Chúng mày cẩn thận, trận chiến này ác liệt
lắm đó nghe. Ráng giữ mình để rồi còn về
nhậu với tao !
Thiếu
Úy Mỹ, Sơn của Đại Đội 92, Thiếu Úy Đông và
tôi của Đại Đội 93 hiện rõ nét ưu tư trên
khuôn mặt. Chúng tôi lặng lẽ lui ra và căn
dặn thuộc hạ thận trọng trong cuộc hành quân này.
Chinook thả chúng tôi vào trận chiến, trực thăng
đậu ngay trên quốc lộ. Chúng tôi ào ra
và thật ngỡ ngàng. Dân chúng kẻ bồng người
bế, lần lượt di tản. Cạnh quốc lộ xác chết vô số kể,
dân thì không nói chi, còn lính
thì được bạn bè phủ cho tấm poncho, rồi vội vàng
cất bước, phần đông bị trúng đạn pháo của địch.
Chúng tôi dàn quân và tiến một
cách thận trọng. Đầu tiên băng qua vườn trái
cây, vườn mít. Ngày đầu chúng tôi ăn
mít trừ cơm, ôi, những múi mít vàng
thơm ngon lạ thường. Đêm đó tôi mắc võng ngủ
dưới tàng cây và hương thơm của mít
đã ru chúng tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị.
Đêm bình yên đã qua, sáng sớm được
lịnh di chuyển, gần cả ngày vẫn không thấy động tịnh
gì. Chúng tôi bắt đầu lo, hễ vào vùng
rồi mà yên tĩnh như thế là biết bọn cộng sản ở
phía trước đang chờ đón chúng tôi. Tuy
nhiên, trên bầu trời Không Quân bạn đủ loại từ
A1 Skyraider đến A 37, rồi trực thăng võ trang không ngừng
xuất hiện thay phiên oanh kích và bắn phá
xung quanh chúng tôi đẻ yểm trợ.
Đến
ngày thứ hai, bọn cộng sản bắt đầu lộ diện và giao tranh
cầm chừng cốt nhữ chúng tôi vào bẫy mà
chúng đang giăng. Chúng tôi tiến chậm. lục
soát kỹ vài giao thông hào còn mới
toanh, bọn chúng nhữ chúng tôi vào sâu
hơn. Qua khỏi những vườn trái cây, sâu vào
phía trong, chúng tôi đụng phải vườn cao su bao la
ngút ngàn rộng cả trăm mẫu. Việt cộng xuất hiện mọi nơi,
giờ thì chúng tôi thực sự chạm địch. Một vài
tên cộng sản khôn ngoan núp trên cây cao
su nhắm bắn chúng tôi tùng thiết sau thiết
giáp M113 , cỏ mọc cao ngang bụng. Thiết Giáp khai hỏa
trước, sau đó chúng tôi xung phong tấn công
mục tiêu, mà hễ lên bao nhiêu là bị đốn
ngã bấy nhiêu. Một chiếc thiết giáp bị trúng
B40 nữa, Dù và Thiết Giáp mới vỡ lẽ, cùng
đồng loạt hướng mũi súng lên các ngọn cây cao
su mà khai hỏa. Từ xa chúng tôi thấy xác
chúng rơi xuống như mít rụng. Tổng kết trong ngày,
Tiểu Đoàn 9 Dù thiệt hại nhẹ, tuy nhiên có
một sĩ quan Dù tử trận. Được biết anh ấy nhận lịnh chiếm mục
tiêu, thấy binh sĩ bị thương anh nóng ruột tiến
hàng đầu trong lúc binh sĩ chưa chuẩn bị kịp thì
anh đã bị đốn ngã.
Trận
chiến cứ tiếp diễn từ ngày này qua ngày
khác, ban ngày tiến chiếm mục tiêu, nửa khuya lặng
lẽ rời bỏ vị trí, có lúc 9, 10 giờ đêm vẫn
còn đánh. Xác chiến hữu hồi chiều đến giờ vẫn
còn nằm bên miệng hố địch mà không làm
sao đem ra được. Đại Úy Tường, Đại Đội Trưởng Đại Đội 93 ra lịnh
trung đội tôi bằng mọi cách phải đem xác về. Đợi
đến khuya chúng tôi lấy dây dù cột
võng nối hai, ba sợi lại làm một im lặng bò
lên dùng đầu dây cột vào chân
xác chết kéo nhẹ về. Việt cộng nghe động liền nổ
súng. Khi kéo được xác bạn mình về
thì thân thể anh nhận thêm một số vết đạn nữa.
Đêm đó chúng tôi chôn xác anh
tại chỗ. Khoảng 2 giờ sáng, đang ngủ ngon sau một ngày
vất vả, chúng tôi được lịnh bỏ vị trí và dời
quân. Cứ như thế cho đến suốt cả tuần. Lương thực và đạn
dược bắt đầu cạn dần, tiếp tế rời rạc khó khăn. Đôi
lúc chúng tôi xin thực phẩm của dân để
bù dắp.
Trở
ngại đến với chúng tôi mỗi lúc một nhiều hơn. Như
hôm nay đang di chuyển bỗng gặp một nhánh sông trước
mặt mà nhìn vào bản đồ lại không có
tên. Chúng tôi cố gắng vượt qua. Nhảy Dù
mà, cố gắng hết mình. Nhưng Nhảy Dù dở ở chỗ
là nhân tài biết lội lại không nhiều,
hành trang cồng kềnh, chưa kể súng đạn, nên khi qua
kiểm điểm lại có vài binh sĩ bất khiển dụng vì
uống nước sông quá nhiều, cũng như có hai binh sĩ
bị nước cuốn trôi vì dòng sông nước chảy
siết. Thật vô lý, sau đó chúng tôi tự
nguyện mỗi lần về hậu cứ, sau giờ học Thái Cực Đạo là xin
cấp trên cho đi học bơi. Ra khỏi vùng bàn giao cho
đơn vị bạn, chúng tôi được nghỉ xả hơi một ngày
cạnh quốc lộ và cũng nhận được tin vui từ Bộ Tư Lệnh Dù
là đã được Bộ Tổng Tham Mưu tưởng thưởng bằng cách
thăng cấp tại mặt trận cho các quân nhân từ cấp
Trung Đội Trưởng trở xuống hàng khinh binh lên một cấp.
Thêm vào đó, chúng tôi được bổ sung
vài sĩ quan hiện dịch về Tiểu Đoàn. Họ đã ra
trường sớm hơn ngày mãn khóa, và đồng thời
lúc đó cũng là ngày buồn cho cộng sản
đã được lãnh hai quả CBU do Không Quân ta gởi
tặng.
Sau
một ngày ngơi nghĩ, lại tiếp tục di chuyển, tiến men theo quốc
lộ Sài Gòn - Vũng Tàu về hướng Bà Rịa. Vừa
đến gần Tiểu Khu Phước Tuy, chúng tôi bị pháo
kích, đoàn quân hỗn loạn. Trung Tá Nguyễn
Văn Nhỏ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 Dù của
chúng tôi bị thương đầu tiên. Thiếu Tá Đường
Tiểu Đoàn Phó lên thay. Tại Tiểu Khu Phước Tuy,
chúng tôi được Tiểu Khu Trưởng (một cựu sĩ quan Dù)
tiếp đón ân cần và tiếp tế lương thực. Dân
chúng Bà Rịa hay tin có mặt đơn vị Dù ở
đây, họ vui mừng khôn xiết đem đồ ăn và tặng phẩm
tới tấp. Chúng tôi có được hai ngày ở Phước
Tuy thật thoải mái, hàng quán chỉ còn thưa
thớt nhưng được chúng tôi chiếu cố thật kỹ. Đến
ngày thứ ba, binh sĩ gác cầu Long Hương phát
giác tăng địch xuất hiện nhưng họ tưởng là chiến xa bạn
nên không báo cáo. Lúc ấy Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn Dù đóng trong dinh Tỉnh Trưởng được
thiết vận xa nằm ngoài làm an ninh. Những trung đội
chúng tôi nằm rải rác dọc theo hai bên phố
ngoài thị xã.
Chiến
xa địch sau khi điều chỉnh tác xạ, chúng bắt đầu
nã đại liên cùng đại bác về phía
Dù. Thấy việc lạ, chúng tôi báo cáo
về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn và xin lịnh. Khi được tin
đúng là tăng địch, Dù và Thiết Giáp
thêm một lần vất vả, vì không ngờ đó
là T54, trong khi Thiết Giáp tăng phái chỉ
toàn M113 và 2 chiếc M 48. Binh sĩ Dù nằm dọc theo
hai bên phố lấy lại bình tĩnh và bắt đầu sử dụng
M72 bắn cầm chân chiến xa địch để Thiết Giáp hộ tống Bộ
Chỉ Huy Tiểu Đoàn 9 Dù rút về hướng Vũng
Tàu. Chiến xa địch cũng không dám tiến lên,
chúng đang đợi bộ binh tùng thiết đến tấn công,
chúng tôi lợi dụng khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đưa
toàn Bộ Chỉ Huy thoát khỏi tầm đạn tăng địch. Tuy
nhiên địch vẫn bám theo sát. Đến cầu Cỏ May, địch
lại càng gần ta hơn vì quân ta gặp một trung đội
Thủy Quân Lục Chiến đang giữ cầu không cho chúng
tôi qua. Sau một hồi thảo luận họ mới kéo hàng
rào cản, và không hiểu sao họ lại theo chúng
tôi luôn. Thực sự lúc đó địch đã gần
kề. Lịnh trên cho toán Công Binh Dù nổ
mìn giựt sập cầu. Nhưng mìn mang theo lúc
đó không còn nhiều, nên sức công
phá chỉ đủ sập một nhịp mà thôi. Như thế cũng
khá lắm rồi. Tăng địch bắt buộc dừng lại, nhưng chúng
cũng không để yên, luôn bắn đạn tầm xa với theo
chúng tôi làm một số binh sĩ theo những chiếc M113
sau cùng bị thương.
6. Phần
6
Gần
đến thị xã Vũng Tàu, qua khỏi một khúc quanh
không xa Trường Thiếu Sinh Quân cho lắm, cả một đại đội
địch ở đâu không biết ào ra bao vây chiếc M113
do tôi dẫn đầu và mở đường cho Tiểu Đoàn Dù
phía sau. Tuổi chúng còn thật trẻ, vài đứa
mặc quần áo của ta trông thật không giống ai.
Tôi lấy khẩu T38 nhét dưới đùi, trường hợp bất trắc
có thể sử dụng ngay. Nhanh trí tôi liền đứng dậy
đưa hai tay tỏ dấu thân thiện và la lớn:
- Bạn
đây, bạn đây, đừng bắn !
- Một
tên tiến đến gần có vẻ là cấp chỉ huy đã hỏi
tôi:
- Bạn
hả ? Mới lấy được tăng ngụy phải không ? Còn chúng
nó đâu ?
Tôi
vẫn tiếp tục cứng với nó, mặc dù trong bụng hơi run,
không biết có qua mặt nỗi bọn ác ôn
này không. Tôi chỉ đại ra phía sau, bỗng dưng
hắn tưởng thiệt, ra lịnh cho đám lính lui và dạt
ra hai bên nhường đường cho xe tôi qua Như đã
nói trên là đang ở khúc quanh, xe tôi
và chiếc thứ hai khá xa nên không thấy
gì hết. Tôi cầm khúc cây nhỏ khỏ vào
đầu nón sắt của anh lính Thiết Giáp ra lịnh tống
hết ga chạy về phía trước, rồi nói với anh hiệu
thính viên liên lạc với chiếc thứ hai rằng bọn
chúng đang phục kích trước mặt, hãy đề
phòng. Như chuẩn bị trước, những chiếc kế tiếp tiến lên
và khai hỏa vào hai bên đường. Bọn Việt cộng chết
vô số kể và lẩn trốn để đoàn xe tiếp tục triệt
thoái về hướng Vũng Tàu.
Tới
Bến Đá, giờ đây đủ các quân binh chủng của ta
thuộc Quân Khu III, chưa kể một số đơn vị thuộc Quân Khu II
và còn dân chúng nữa. Không thể tưởng
tượng được, Thiết Giáp không còn đất sử dụng
và cũng cùng đường rồi. Những tài xế lái
thiết xa cho máy nổ, sang số cho xe chạy sát bờ biển, ra
lịnh mọi người nhảy ra ngoài, xe tiếp tục lăn xích đi
xuống lòng đại dương. Trung Sĩ Hai đứng chết lặng, hai
hàng nước mắt tuôn rơi nhìn lần cuối chiếc M113 từ
từ mất dạng trong biển nước mênh mông. Giờ thì Thiết
Giáp theo lính Dù luôn, chúng
tôi đi đâu họ theo đó. Hậu cứ Tiểu Đoàn 6
Nhảy Dù ở Vũng Tàu đem thuyền nhỏ đến rước chúng
tôi, vì không còn phương tiện hiện hữu
nào có thể sử dụng vào lúc này.
Lênh đênh ngoài khơi cả buổi, liên lạc nghe
ngóng, tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi
bản tin nghe được từ máy radio bỏ túi, lịnh Tướng Minh
tuyên bố buông súng đầu hàng. Thôi hết
rồi. Tiểu Đoàn 9 thuộc Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù quăng tất
cả vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng xuống biển
và tự ý tan hàng sau lời nhắn nhủ đầy xúc
động của Thiếu Tá Đường Tiểu Đoàn Trưởng. Chúng
tôi giã từ vũ khí một cách bất đắc dĩ
ngoài khơi Vũng Tàu, không đầy hai hải lý
cách đất liền. Ngoại trừ một số chết và bị thương,
quân số Tiểu Đoàn còn 80%.
Viết
để hồi tưởng lại, người sống cũng như người chết, bạn hữu, thân
bằng quyến thuộc đã hy sinh cho Chính Nghĩa Quốc Gia
và Dân Tộc. Tin vào ngày mai, tất cả sẽ đổi
thay như luật trời đã định. Đoàn quân ta sẽ trở về
trong danh dự và bọn cộng sản không còn hiện hiện
trên đất nước thân yêu của chúng ta nữa.
Ngày
25.4.1975, Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù được xuất phái ra
khỏi Sư Đoàn 18 Bộ Binh, di chuyển về bảo vệ Vũng Tàu.
Trước đó, trưa ngày 22.4.1975, một chiếc C 130 chở một
trái bom CBU 55 bay lên vùng trời Long Khánh
và đã thả nó lên chỗ tình nghi
là Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 341, mà đang đóng
ngay ngoại ô tỉnh lỵ Xuân Lộc. Tấm thảm lửa phosphor từ
trái bom vỡ bùng lên và ngay lập tức, một
khoảng không gian bị hút lấy dưỡng khí từ
đám lửa, đã làm cho binh đội Việt cộng bên
dưới ngã lăn ra chết vì ngạt thở. Tổn thất của Sư
Đoàn 341 thật khủng khiếp, 250 cán binh cộng quân
chết trong những tư thế đau đớn. Sau GBU 7 tấn, thì CBU 55
là loại bom sát thương chống người, trong nỗ lực ngăn
chống làn sóng cộng sản quốc tế. Nhưng một vài
trái bom đó không đủ làm thay đổi
tình thế, mà chỉ kéo dài thêm thời
gian hấp hối của Việt Nam Cộng Hòa. Cũng trong ngày
22.4.1975, Trung Đoàn 8 Bộ Binh và Chiến Đoàn 322
của Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng đã chiếm
được Hưng Nghĩa, nhưng được lệnh rút quân ngay về bảo vệ
Biên Hòa.
Tiểu
Đoàn 2/43 của Thiếu Tá Chế nhận lệnh Chuẩn Tướng Đảo đang
bay chỉ huy trên C&C rời bỏ con đương Liên Tỉnh Lộ 2
chia thành nhiều nhóm nhỏ cắt đường rừng mà đi.
Cộng quân cứ ra rả gọi loa kêu đích danh Thiếu
Tá Nguyễn Hữu Chế bó tay qui hàng. Các
chiến sĩ Tiểu Đoàn 2/43 cực nhọc chiến đấu liên tục đến
ngày 23.4 mới về đến được Phước Tuy, quân số hao hụt đến
hơn 50%. Một con số hết sức đau xót cho số thân nhân
của các tử sĩ đang ngóng trông các anh ở hậu
cứ Long Bình. Cuộc hành quân hoàn tất buổi
chiều ngày 21.4.1975. Sư Đoàn 18 Bộ Binh đã phải
bỏ ra ba ngày để tái trang bị, bổ sung quân số tại
Long Bình. Ngày 24.4.1974, chiến sĩ Sư Đoàn nhận
được tin vui. Tổng Thống Trần Văn Hương đến Long Bình vinh thăng
đặc cách Thiếu Tướng cho Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo và
thăng thưởng nhiều chiến sĩ hữu công khác.
Nhớ
lại mười hai ngày đêm chiến đấu tại Long Khánh,
các chiến sĩ bộ binh dưới sự hỗ trợ của trên 600 phi xuất
Không Quân, Pháo Binh và Kỵ Binh, đã
bắn cháy hơn 30 xe tăng địch quân, tiêu diệt 10,000
quân giặc. Sư đoàn di chuyển về khu vực Sài
Gòn để chuẩn bị đánh những trận đẫm máu cuối
cùng bảo vệ thủ đô. Sáng ngày 30.4.1975,
các đơn vị sư đoàn đang trấn giữ khu vực Nghĩa Trang
Quân Đội trên xa lộ Biên Hòa, thì Thiếu
Tướng Đảo nhận được điện gọi của Đại Tá Lê Xuân Hiếu
báo tin Tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng giặc
và lệnh cho toàn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
phải buông súng “ai ở đâu thì ở đó chờ
quân giải phóng đến bàn giao”. Trong một nỗ lực
cuối cùng, Thiếu Tướng Đảo cố gắng liên lạc với các
Trung Đoàn Trưởng, nhưng các đơn vị đều đã tan
rã. Vẫn không chịu khuất phục và bỏ cuộc, trong bộ
quần áo dân sự, Thiếu Tướng Đảo tìm cách về
đến được Cần Thơ, với hy vọng Quân Đoàn IV của Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam và Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng tiếp tục chiến
đấu. Nhưng người anh hùng thất cơ lỡ vận của chúng ta chỉ
có thể tìm thấy một thành phố ngơ ngác,
hoảng loạn và tin tức về cái chết anh dũng của hai vị
Tướng. Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường , Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh
bảo vệ Cần Thơ cố gắng liên lạc với Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư
Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh, với một hy vọng mỏng manh nào
đó. Nhưng Chuẩn Tướng Hai cũng đã uống thuốc độc tử tiết
chiều cùng ngày. Sư Đoàn 9 Bộ Binh của Chuẩn Tướng
Huỳnh Văn Lạc hãy còn đang đánh nhau với cộng
quân tại chiến trường biên giới Mộc Hóa, rồi cũng
tan hàng trong cay đắng. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc
đánh dấu chấm hết một cách oan khuất và tức uất kể
từ giây phút đó. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo,
người anh hùng cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam
trở về Sài Gòn. Ngày 9.5.1975 Thiếu Tướng Đảo bị
gửi vào trại tù cộng sản. Người anh hùng của đất
nước phải trả một cái giá quá đắt cho chiến thắng
Xuân Lộc với mười bảy năm tù dài đăng đẵng.
Tháng 4.1993, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đặt chân
lên mảnh đất tự do Hoa Kỳ. Một trong những công việc trước
nhất mà ông nghĩ tới, là đi tìm thăm lại tất
cả những chiến sĩ thuộc cấp từng sát cánh chiến đấu với
ông từ ngày ông về làm Tư Lệnh Sư Đoàn
18 Bộ Binh. Câu hỏi đầu tiên của ông lúc
nào cũng là:”Các anh em có phiền
trách gì tôi không ?”. Đã một phần tư
thế kỷ trôi qua rồi mà Thiếu Tướng Đảo vẫn hãy
còn rất băn khoăn, rằng ông đã có lỗi để cho
chiến hữu của ông phải rơi vào cơn bão xoáy
tang tương của đất nước đến như vậy. Nhưng câu trả lời bao giờ
cũng là:”Anh em vẫn luôn kính yêu Hằng Minh
(danh xưng chiến trường của Thiếu tướng) như ngày nào.
Hằng Minh không có lỗi gì hết”. Thiếu Tướng Đảo
đã dùng danh xưng chiến trường Hằng Minh để tưởng nhớ đến
sự hy sinh dũng liệt của cố Trung Tá Lê Hằng Minh,
là bào đệ của ông, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 2 Trâu Điên Thủy Quân Lục Chiến, tại
vùng Phong Điền, Thừa Thiên, trong một cuộc phản phục
kích đẫm máu với quân giặc.
Trong
trại tù, Thiếu Tướng Đảo đã khảng khái nói
với các cai ngục cộng sản:”Nếu các ông còn
đang giam giữ nhiều chiến hữu sư đoàn của tôi, thì
tôi mong là tôi sẽ là người sau chót
bước ra khỏi đây. Nếu khác đi thì tôi
không còn mặt mũi nào nhìn họ nữa”. Khi được
hỏi về những ký ức ở Xuân Lộc, Thiếu Tướng Đảo đã
trầm ngâm đôi giây phút:”Chiến đấu là
một nghệ thuật.Chúng ta không phải dùng tay
và chân thôi, mà còn trí
óc nữa. Cho dù biết đang thua cuộc chiến tranh, tôi
vẫn chiến đấu”. Với bản tính khiêm tốn , lời nhắn nhủ với
tác giả sử gia Jay Veith, người đã bỏ công phục
hiện lại diễn tiến Xuân Lộc, của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo,
Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, được dùng làm lời kết
cho thiên anh hùng ca này:'Xin đừng gọi tôi
là anh hùng. Những chiến hữu của tôi đã hy
sinh tại Xuân Lộc và những chiến trường khác mới
chính là những anh hùng”. Không cần thiết
phải ngợi ca Thiếu Tướng Lê Minh Đảo là một anh
hùng. Những dữ kiện của sự thật đã nói lên
được điều đó.
Phạm
Phong Dinh
(Trích trong Thiên Hùng Ca Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa)
Tài liệu tham khảo:
George J.Veith, Fighting is an Art: “The ARVN Defense of Xuan Loc,
April 9 - 21, 1975”.
Đại Tá Hứa Yến Lến, Tuyến Thép Xuân Lộc, 12
Ngày Đêm Ác Chiến Với Cộng Sản Bắc Việt.
Nguồn:
http://www.quanvan.net/index.php?view=story&subjectid=26400
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Việt Nam Cộng Hòa
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
|