Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.net
Quan niệm của Phan Bội Châu về
Dân Quyền
Phan Bội Châu
(1867-1940)
Tiểu Sử Phan Bội Châu
Phan Bội Châu sinh vào tháng Chạp năm Ðinh
Mão, tức là năm Tự Ðức thư 20 (1867), cha mẹ
đặt tên là Phan Văn San. Về sau, vì sợ phạm
húy với Hoàng tử Vĩnh San, tức vua Duy Tân, con thứ
của vua Thành Thái, nên đổi lại là Phan Bội
Châụ Bội-Châu có nghĩa là đeo ngọc.
Sinh trưởng trong một gia đình lễ giáo, thân phụ
ông là Phan Văn Phổ, một nhà nho chân
chính rất trọng chữ thanh cần. Thân mẫu ông
là bà Nguyễn Thị Nhàn, một nữ sĩ được tiếng
là người đức hạnh.
Phan Bội Châu quê ở xã Ðông Liệt, tỉnh
Nghệ An. Năm lên 3 tuổi, ông phải theo cha mẹ về ở nơi
quê của nội tổ ở làng Ðan Nhiệm, tổng Xuân Liễm,
huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An.
Từ thuở bé, Phan Bội Châu đã được hấp thụ một nền
giáo dục rất chặt chẽ nhờ vào sự đảm đang nuôi
nấng, dạy dổ của mẫu thân, nhưng phần lớn cũng nhờ vào sự
nghiêm khắc của thân phụ, lúc bấy giờ làm
nghề dạy học.
Phan Bội Châu rất mực thông minh. Năm lên 6 tuổi được
cho đi học, chỉ trong ba ngày, ông học he^'t cuốn
Tam Tự Kinh. Lên bảy tuổi học đến sách Luận ngữ, ông
đã mô phỏng để làm cuốn Phan tiên sinh luận
ngữ, có ý mỉa mai chúng bạn nên bị phụ
thân quở phạt. Năm 1874, ở Nghệ An có phong trào
Văn Thân, dù chỉ mới là một đứa bé lên
tám, Phan Bội Châu cũng muốn noi gương của Trần Quốc Toản
xưa đã giúp Hưng Ðạo Vương để đại phá
quân Nguyên ở Bến Chương Dương nêu cao lá cờ
phá cường tặc báo hoàng ân nên
ông đã tụ tập bọn trẻ con lại để tập trận giả bằng những
súng đạn do chính ông
làm ra.
Năm 1885, hưởng ứng phong trào Cần Vương, Phan Bội Châu tổ
chức Sĩ-tử Cần Vương đội. Nhưng nhận thấy rằng công cuộc Cần
Vương chỉ có thể đem lại kết quả tốt đẹp khi nào người
lãnh đạo là một nhân vật có chân khoa
bảng xuất thân, nhất là phải có danh vọng,
ông phải đành quay về với lối học cử nghiệp.
Dù rất thông minh và hay chữ, Phan Bội châu
thi Hương bao nhiêu lần vẫn trượt. Sở dĩ có chuyện lạ
như thế vì :
* Lối văn khoa cử không thích hợp với người đã
có sẵn một tinh thần cách mạng. Do đó, Phan Bội
Châu không chịu ép mình trong khuôn khổ
của trường quy.
* Nhà nghèo, ông thường làm bài mướn
để lấy tiền tại trường thị Ðã có lần vì phạm
húy, ông bị bôi tên trong danh sách
thí sinh trọn đời. Về sau, nhờ sự vận động của quan Tế-Tửu
Trường Quốc Tử Giám là Khiêu Năng Tĩnh, thầy học
của ông, ông được đi thi lại. Khóa thi Hương năm
Canh Tý (1900), ông thi đỗ Thủ Khoa tại trường thi Nghệ An
lúc bấy giờ ông đã 33 tuổi.
Năm 1901, ông có thi Hội nhưng không đỗ, ông
cũng chẳng màng đến công danh nữa. Con đường cử nghiệp đối
với ông chỉ là phương tiện giúp cho ông mưu
đồ việc lớn, chớ chí khí của nhà cách mạng
lão thành Phan Bội Châu đâu đã
chịu gởi nơi trường khoa danh.
Tiếng tăm hay chữ và mảnh bằng Giải nguyên đã
giúp Phan Bội Châu có uy tín trong việc
lãnh đạo công cuộc khởi nghĩa Cần Vương. Ông bắt đầu
hoạt động mạnh trong nước.
Sau khi Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần
Vương xuống dần và cơ hồ tan rã, Phan Bội Châu
đã nối chí nhà lãnh đạo tiền bối. Phan Bội
Châu đứng ra kêu gọi dân chúng ở miền Thượng
du khởi nghĩa.
Nhận thấy con đường cử nghiệp làm cho dân tộc đi đến chổ
yếu hèn, Phan Bội Châu kêu gọi canh tân.
Ðể khích động lòng ái quốc của nhóm sĩ
phu và nhân dân trong nước, ông đã viết
ra tập Lưu cầu huyết lệ tâm thư. Ông đã vào
Nam ra Bắc để liên lạc với những nhà ái quốc trong
nước để vận động cho cuộc cách mạng có kết quả.
Lúc bấy giờ, những người cùng chí hướng với Phan
Bội Châu ở miền Trung như Ðặng Nguyên Cản, Ðặng
Thái Thân, Trần Quý Cáp, Ngô Ðức
Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Nguyễn Cần, ở miền
Bắc có Nguyễn Thượng Hiền, Lê Ðại, Nguyễn Quyên,
Lương Văn Can, ở miền Nam có Nguyễn Thần Hiến, Trần Chánh
Chiếu. Phan Bội Châu cũng đã lên tận Yên Thế
xin gặp Hoàng Hoa Thám. Ðể cho công cuộc Cần
Vương được thống nhất, ông bàn với ông Tiểu La
Nguyễn Văn Thành đồng tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể
lên làm Hội Chủ.
Nhận thấy còn phải có sự viện trợ của ngoại bang trong
việc cách mạng kháng Pháp, ông bàn
với các bạn cho ông được xuất dương.
Năm 1905, Phan Bội Châu xuống tàu, giả làm thương
khách qua Tàu rồi sau đó sang Nhật.
Sau khi xuống tàu sang Hương Cảng rồi đến Nhật, Phan Bội
Châu đến gặp Lương Khải Siêu, người lãnh đạo
công cuộc duy tân của Trung Hoa và sau cuộc
chính biến phải lưu vong sang Nhật. Tại đây, Lương Khải
Siêu giới thiệu Phan Bội Châu với những vị chính
khách Nhật như Bá tước Ðại Ôi và Khuyển
Dương Nghị. Hai vị này khuyên ông nên về nước
mời Kỳ Ngoại Hầu sang Nhật. Sau đó ít lâu,
ông lại sang Nhật.
Năm 1906, Kỳ Ngọai Hầu Cường Ðể và nhiều du học sinh sang
Nhật. Phan Bội Châu lại xin cho các du học sinh vào
học ở Chấn Võ Học Hiệu và Ðồng Vạn Thư Viện. Cũng
trong năm ấy, ông Phan Chu Trinh sang Hương Cảng và qua
Nhật. Hai nhà cách mạng cùng họ Phan đã gặp
nhau và luận bàn quốc sự. Dù Phan Chu Trinh
và Phan Bội Châu có bất đồng ý kiến, nhưng
cả hai đều rất quý mến nhaụ
Cuối năm 1906, Phan Bội Châu lại về nước một lần nữa để dọ đường
hầu để chở khí giới về cho Hoàng Hoa Thám ở
Yên Thế.
Năm 1907, Phan Bội Châu lại trở sang Nhật. Sau khi ký
thương ước với Pháp xong (năm 1908) chính phủ Nhật
đã ra lệnh trục xuất những nhà cách mạng Việt Nam
ra khỏi lãnh thổ. Phan Bội Châu và các đồng
chí phải trở lại Trung Hoa hoạt động.
Năm 1912, do theo lời yêu cầu của các bạn, Phan Bội
Châu qua Xiêm (Thái Lan) một thời gian. Cũng trong
năm này, cuộc cách mệnh Tân Hợi của Trung Hoa
thành công. Từ Xiêm, ông trở lại Trung Hoa,
lập ra Việt Nam Quang Phục Hội chủ trương theo chính thể
dân chủ.
Năm 1912, Trung Hoa Dân Quốc được thành lập, Phan Bội
Châu được đốc quản tại Thượng Hải là Trần Kỳ Mỹ và
đô đốc Auq?ng Tây là Hồ Hán Dân
giúp đỡ về tài chánh và tinh thần. Trong
thời gian này, Phan Bội Châu giữ chức quyền Tổng lý
Việt-Nam-Quang-Phục Hội.
Năm 1913, nhân việc ném bom ở Thái Bình
HàNoi Hotel, Hội đồng Ðề Hình của thực dân
Pháp xử tất cả 14 án chém, Phan Bội Châu
và Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể đứng đầu sổ.
Quân lính ở tỉnh thành Quảng Ðông
gây biến, Long Tế Quang đem binh đến dẹp và nhậm chức
đô đốc Quảng Ðông. Vì ăn của lót của thực
dân Pháp, Long Tế Quang bắt Phan Bội Châu giam
vào ngục. Chính trong thời gian bi giam giữ, ông
đã viết ra tập Ngục Trung Thư Cuộc thương thuyết của Pháp
và Long Tế Quang chưa xong thì chiến cuộc Âu
châu bùng nổ (1914-1918), Long tế Quang bị hạ, đảng
cách mạng Trung Hoa cứu Phan Bội Châu ra khỏi ngục Quảng
Châụ
Năm 1914, Phan Bội Châu lập tại Quảng Châu một cơ quan lấy
tên là Tâm Tâm Xã dùng
làm nơi liên lạc với những đồng chí và dự
định viết sách gởi về nước để giục lòng yêu nước
của đồng bào và tuyên truyền tinh thần dân
nước.
Trong tháng ba năm ấy, được biết tin toàn quyền Merlin
sang công cán bên Nhựt, Phan Bội Châu liền
triệu tập các đồng chí quyết đón đường hạ
sát Merlin. Phạm Hồng Thái được chọn thì
hành việc này. Quả bom ở Sa-Ðiện nổ, tuy không
giết được Merlin nhưng đã thức tỉnh được sự say ngủ của đồng
bào trong nước và gây một tiếng vang khắp thế giới
đều biết.
Năm 1925, nghe theo lời Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ,
Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức Toàn thế giới bị
áp bức nhược tiểu dân tộc nhưng sau đó Lý
Thụy và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội
Châu nộp cho thực dân Pháp để :
1. Tổ chức lấy được một số tiền thưởng (vào khoảng 15 vạn bạc)
hầu có đủ phương tiện hoạt động.
2. Gây một ảnh hưởng sâu rộng trong việc tuyên truyền
tinh thần ái quốc trong quốc dân.
Thế là Phan Bội Châu bị bắt tại Thượng Hải, bị giải về
Hương Cảng rồi về Hải Phòng, sau cùng bị giam tại
nhà giam Hỏa Lò, Hà Nội. Ðể tránh việc
làm cho dư luận quá xôn xao về tin Phan Bội
Châu bị bắt, thực dân Pháp gắn cho ông
cái tên tù quốc phạm là Trần Văn Ðức.
Hội Ðồng Ðề Hình nhóm xử ngày 25
tháng 11 năm 1925 dưới sự chủ tọa của viên giám đốc
Brida, Ðốc lý Hàno^.i là Dupuy và đại
úy Bollie làm phụ thẩm, Boyer làm bồi thẩm
và Arnoux Patrick làm lục sự. Hội Ðồng Ðề
Hình cử luật sư Bona ở Hànoi và luật sư Larre ở
Hải Phòng biện hộ cho Phan Bội Châu.
Trước những lời lẽ buộc tội gắt gao của Hội Ðồng Ðề
Hình, Phan Bội Châu ung dung và chẫm rãi đối
đáp một cách rõ ràng khúc chiết.
Ðể bênh vực cho hành động hợp lý và
quang minh chính đại của mình.
Sau khi hay tin Phan Bội Châu bi án tử hình, phong
trào vận động ân xá cho ông nổi lên rầm
rộ. Hội Thanh Niên Việt Nam in ra bốn ngàn lá đơn
gởi đến các cơ quan chính phủ Pháp, các sứ
thần liệt quốc ở Ba Lê, các tổ chức quốc tế yêu cầu
can thiệp. Việt kiều ở Pháp họp đại hội bênh vực Phan Bội
Châu, gởi điện tín kháng nghị hoặc yêu cầu
tới những cơ quan có liên hệ đến vụ án Phan Bội
Châụ
Trước sự công phẩn của quốc dân, ngày 24/12/1925,
Toàn quyền Varenne, sau khi đề nghị về Pháp, quyết định
xin ân xá cho nhà chí sĩ yêu nước. Sau
khi được ân xá, Toàn quyền Varenne đưa Phan Bội
Châu về an trí ở miền sông Hương núi Ngự
(Huế) gọi là để di dưởng tuổi già nhưng kỳ thật
chúng định giam lỏng ông.
Tuy nhiên, tấm lòng thiết tha yêu nước của ông
không vì thế mà chịu lu mờ. Ông đã
âm thầm nhận lãnh chức Cố vấn của Việt-Nam-QuốcDDân
Ðảng. Ðã có lần V.N.Q.D.DD định âm mưu đem
ông trốn thoát ra ngoại quốc nhưng không
thành vì không sao thoát được sự dòm
ngó của thực dân Pháp.
Năm 1940, khi phái bộ Nhật tiến vào Ðông Dương
thì cũng chính là lúc thời cuộc đã
chuyển sang giai đoạn mới cho cuộc Cách mạng dân tộc. Tiếc
thay, trong giờ phút nghiêm trọng của lịch sử này,
nhà cách mạng lão thành Phan Bội Châu
đã lìa bỏ cõi đời theo tiền nhân về
bên kia thế giới, lưu lại cho hậu thế một tấm gương sáng
và nổi niềm thương nhớ không nguôi.
Trước giờ sắp lâm chung, ông đã cố gắng lấy hết hơi
tàn và góp nhặt thần trí, đọc lên một
bài khẩu chiếm có những lời lẽ thống thiết như sau :
Nay đang lúc tử thần chờ trước của
Có vài lời ghi nhớ về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau.
Phan Bội Châu mất vào ngày 29/10/1940.
Nguồn:
http://xuquang.com/dialinhnk/danhsi/pbcts.htm
|
|
Nguyễn Văn Hòa
Tiến sĩ, Giám đốc trung tâm đào tạo
từ
xa, Đại học Huế
Tạp chí Triết học |
|
|
Bài viết trình bày và
phân tích tư tưởng của Phan Bội Châu về dân
quyền, cũng như ý nghĩa của tư tưởng dân quyền đó
đôi với việc thực hiện quốc quyền , tức là quyền độc lập,
tự chủ của dân tộc Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Tiếp
đó, bài viết trình bày và phân
tích tư tưởng của Phan Bội Châu cho rằng: muốn thực hiện
được quốc quyền, chế độ chính trị của Việt Nam khi đó
phải chuyển từ quân quyền sang dân quyền theo xu thế
phát triển tất yếu của thời đại, với việc nâng cao
dân trí thông qua giáo dục.
Dưới ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng
phương Tây, đặc biệt từ khi qua Nhật Bản và được chứng
kiến một nước có truyền thống Nho học do biết tiếp nhận
và vận dụng những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây
vào công cuộc duy tân mà trở nên
hùng cường; được nghiên cứu và trao đổi về
nguyên nhân cách mạng xã hội, về chính
thể của các nước, về tư tưởng tự do, bình đẳng,
bác ái, dân quyền, dân trí và
các biện pháp duy tân của Môngtexkiơ,
Vônte, Rút xô..., ở Phan Bội Châu đã
hình thành nên một quan niệm mới - quan niệm về
dân quyền. Quan niệm này chứa đựng một nội dung mới mẻ
và không kém phần phong phú, thể hiện mục
đích thiêng liêng cứu nước, giải phóng
dân tộc để đem lại tự do, hạnh phúc cho dân, đem lại
quyền lực cho dân, để cho người dân trở thành chủ
thể của các quyền lực trong xã hội.
Vấn đề dân quyền là vấn đề mới mẻ đối với
các sĩ phu yêu nước Việt Nam trong những năm đầu của thế
kỷ XX. Bởi lẽ, ở thời điểm đó, dân quyền là
cái chưa có trong kho tàng tư tưởng của dân
tộc ta, mà phải tiếp thu từ những trào lưu tư tưởng
Âu Mỹ. Trước sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến, mà
nòng cốt là tư tưởng Nho giáo trong việc bảo vệ
đất nước nửa cuối thế kỷ XIX và yêu cầu giải phóng
dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, với lòng yêu nước nồng
nàn, tài năng và sự mẫn cảm của mình, Phan
Bội Châu đã tìm kiếm và tiếp nhận những
trào lưu tư tưởng phương Tây, đặc biệt là tư tưởng
dân quyền - một thứ vũ khí tư tưởng mới lạ trong thời đại
"châu Á thức tỉnh" sau "giấc ngủ" quân chủ.
Dưới chế độ phong kiến, nửa thực dân, người
dân Việt Nam chỉ có trách nhiệm và nghĩa vụ
phục tùng vô điều kiện yêu cầu của kẻ bề trên.
Họ bị tước bỏ tất cả mọi quyền hành, họ chưa bao giờ là
chủ thể của quyền lực. Bằng sự trải nghiệm của mình, Phan Bội
Châu cho rằng, không có dân quyền là
một trong những nguyên nhân khiến cho nhân dân
ta sống trong tủi nhục, cay đắng, khốn khổ và tăm tối. Trong
Tân Việt Nam (1907), với sự khảo cứu lịch sử và hiện trạng
của nước nhà, Phan Bội Châu đã vạch rõ: "Cái
nọc
độc
chuyên
chế
của
bọn
người hại dân ấp ủ đã
hàng ngàn năm nay từ bên Trung Quốc lây sang
nước ta, đến nỗi một tên độc phu (vua) và vài vạn
kẻ dung nhân (quan) làm cá thịt trăm họ dân
ta. Thế mà dân ta ngu ngốc khờ dại, không biết
giành dân quyền, giữ quốc mệnh, chỉ ngày đêm
lo hết lòng hết sức đem máu mỡ của mình cung đơn
cho bọn độc phu, dung nhân uống nuốt? Than ôi! Thật
đáng thương thay".(1)
Sự lạc hậu và bất cập của hệ tư tưởng phong kiến,
sự thoái hoá của vua quan nhà Nguyễn, sự bắt chước
chế độ chuyên chế của nhà Thanh là những chướng
ngại lớn trên con đường đấu tranh giành độc lập cho
dân tộc, giành lấy chủ quyền về tay nhân dân.
Sự ngự trị của chế độ chính trị cũ kỹ đó cần phải thay
thế bằng thể chế chính trị mới mà trong đó người
dân có quyền. Theo Phan Bội Châu, dân tộc Việt
Nam đã phải trải qua hàng thế kỷ dưới chế độ phong kiến
và thực dân nửa phong kiến, đã sống một cuộc sống
không có tự do là bởi cái nọc độc
chuyên chế đã đầu độc và giết chết dân quyền.
Khi dân không có quyền thì cũng có
nghĩa là, họ chỉ là một thứ công cụ để phục
tùng quyền lực và ý chí của kẻ khác.
Trong khi đó, theo yêu cầu của sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc và canh tân đất nước thì
quyền lực phải thuộc về nhân dân, tức là người
dân phải có quyền. Dân quyền vừa là mục
đích hướng tới, vừa là điều kiện để huy động sức mạnh của
toàn dân, để giải phóng và phát huy
mọi năng lực sáng áo của con người.
Đấu tranh để giải phóng dân tộc, để giải
phóng con người thoát khỏi sự áp bức, để xem lại
quyền cho người dân luôn là điều răn trở, thôi
thúc trong Phan Bội Châu. Ngay trong Việt Nam quốc sử
khảo (1908), Phan Bội Châu đã dành không
ít tâm tuyết để bàn về mối quan hệ giữa dân
quyền và quốc quyền, về mầm mống dân quyền ở nước ta, về
dân quyền ở nước ta bị hao mòn, về mối quan hệ giữa
dân quyền và dân trí với nội dung khá
phong phú. Tuy vậy, khái niệm "dân quyền" chưa được
Phan Bội Châu định nghĩa một cách rõ ràng,
có chăng chỉ là sự luận giải của ông về nữ quyền.
Trong một tác phẩm về vấn đề phụ nữ, Phan Bội Châu
dành một chương bàn về nữ quyền. Trong đó,
ông viết: "Nữ quyền nghĩa là quyền của người
đàn bà con gái, cũng như nam quyền nghĩa là
quyền của người con trai. Nhưng, xét cho đến gốc chân
lý, thẳm cho tới nguồn triết học thì nữ quyền với nam
quyền tất cả thâu nạp vào trong hai chữ "nhân
quyền". Nhân quyền nghĩa là quyền của người mà cũng
nghĩa là quyền làm người. Rằng quyền của người tức
là các quyền đó là người thời đáng
được, rằng quyền làm người tức là đã một con người
tất cả các quyền được làm con người mà không
phải làm trâu ngựa. Con trai là người, con
gái cũng là người, ở trong hai chữ "quyền người"
đã bao bọc cả rồi không phải phân biệt nam quyền nữ
quyền, nếu phân biệt nam quyền nữ quyền cũng là dư".(2)
Theo cách lập luận trên của Phan Bội
Châu, có thể hiểu rằng, dân quyền là quyền
của người dân; người dân có quyền đó
là lẽ tất yếu, đã là con người dù nam hay
nữ đều có quyền làm người và đó cũng
chính là giá trị của con người. Do đó,
không có dân quyền, hay nói cách
khác, không có quyền làm người thì
con người mất hết giá trị, con người không còn
là con người mà trở thành trâu ngựa. Sự
phân biệt nam quyền hay nữ quyền là không cần thiết,
bởi là người tất phải có quyền, người dân phải
có quyền, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng
trước pháp luật. Phan Bội Châu cho rằng: "Mọi thứ
dân quyền đều được bình đẳng".(3) Chứ
đâu phải chỉ có vua, cha, chồng mới có quyền,
còn những người khác thì không có
quyền. Quan điểm này chẳng những khác hẳn quan điểm của
Nho giáo về tam cương vốn đã in dấu ấn đậm nét
trong tâm thức của mọi người, mà còn có
tác động thức tỉnh nhân dân ta đứng lên đấu
tranh xoá bỏ dấu ấn đó, đứng lên đấu tranh
phá bỏ sự áp chế vô lý đương thời để
giành lại quyền làm người của mình.
Trân trọng và đề cao quyền làm
người, quyền của người dân là một trong những biểu hiện
sinh động trong quan niệm của Phan Bội Châu về dân quyền.
Đồng thời, ở đây cũng cho chúng ta thấy rõ sự
chuyển biến tích cực trong tư tưởng của Phan Bội Châu,
ông đã vượt qua hệ tư tưởng phong kiến để tiếp nhận những
giá trị tiến bộ trong các trào lưu tư tưởng phương
Tây nhằm phát huy và tập hợp sức mạnh của mọi người
dân hướng vào sự nghiệp cứu nước, giải phóng
dân tộc và canh tân đất nước. Hướng đến mục
đích đó, Phan Bội Châu nhận thức được rằng,
dân quyền có quan hệ với quốc quyền, dân quyền
có quan hệ với sự thịnh suy và sống còn của đất
nước.
Theo Phan Bội Châu, dân quyền trở
thành tiêu chí quan trọng nhất để xem xét
nước còn hay mất, nước mạnh hay yếu, giá trị của người
dân cao hay thấp, người dân còn hay mất. Ngay những
dòng đầu tiên luận giải về mối quan hệ giữa dân
quyền và quốc quyền, Phan Bội Châu viết: "Theo
công pháp vạn quốc đã định, được gọi là một
nước thì phải có nhân dân, có đất đai,
có chủ quyền. Thiếu một trong ba cái ấy đều không
đủ tư cách làm một nước. Trong ba cái đó
thì nhân dân là quan trọng nhất. Không
có nhân dân thì đất đai không thể
còn, chủ quyền không thể lập; nhân dân
còn thì nước còn; nhân dân mất
thì nước mất. Muốn biết nhân dân còn mất như
thế nào thì phải nhìn xem cái quyền của
nhân dân còn mất như thế nào. Dân quyền
mà được đề cao thì nhân dân được tôn
trọng, mà nước cũng mạnh. Dân quyền bị xem nhẹ, thì
dân bị coi khinh, mà nước yếu. Dân quyền hoàn
toàn mất thì dân mất, mà nước cũng mất".(4)
Như vậy, dân quyền chẳng những là
tiêu chí mà còn là hạt nhân chi
phối các yếu tố cấu thành một nước, trong đó
nhân dân là cái quan trọng. Cái quan
trọng đó còn hay mất lại phụ thuộc vào dân
quyền. Điều có ý nghĩa sâu sắc nhất ở đây
chính là Phan Bội Châu đã xác định
rõ vai trò và vị trí của dân quyền
đối với vận mệnh của đất nước. Đó là điều mà hầu
hết các nhà Nho yêu nước cùng thời với Phan
Bội Châu không dễ gì có thể nhận thức được.
Bởi theo họ, dân là gốc của nước, nhưng để đi sâu
hơn xem cái gốc đó còn hay mất thì họ gặp
phải những khó khăn nhất định. Những khó khăn đó
đã ngăn cản họ, không cho họ đi đến nhận thức được vấn đề
một cách đúng đắn. Còn Phan Bội Châu
đã vượt lên trên những khó khăn đó để
tiếp tục đi sâu và làm rõ vấn đề: "Dân
còn
hay
mất
là
tuỳ
thuộc
vào dân quyền".
Đây là một trong' những biểu hiện sinh động khác về
chất so với hệ tư tưởng phong kiến. Điều này đã được Phan
Bội Châu chỉ rõ như sau: "Trong đời này nếu
không có ông Mạnh Tử thời cái nghĩa
"Dân quý" không sáng tỏ ra; nếu không
có ông Lư Thoa thời cây cờ "Dân quyền" ai dựng
lên được. Nước ta mấy nghìn năm nay, quyền vua ngang dọc,
quyền quan cũng theo đó mà tăng lên, lớn nhất
không ai bằng một người, hèn nhất không ai
bằng trăm họ. . . , việc đáng thương đáng buồn cho thế
đạo, còn có gì hơn cái ấy nữa".(5)
Điều đó có nghĩa là, chỉ có vất bỏ ngọn cờ
quân chủ, nắm lấy ngọn cờ dân quyền thì mới nhận
thức được rằng, dân chẳng những là gốc của nước, mà
còn là chủ của nước.
Nhận thức mới mẻ trên có tác dụng
thức tỉnh, giác ngộ mọi người, phát huy sức mạnh của
toàn dân tộc, phát huy tính tích cực,
tự giác của mỗi con người vào trong mọi hoạt động
chính trị, xã hội. Bởi thế, quan tâm đến dân
quyền luôn là nội dung chủ yếu, là vũ khí
mới lạ trong đường lối hoạt động của Phan Bội Châu.
Trong hoàn cảnh của nước ta lúc bấy giờ,
dân quyền là một điều mới mẻ, là một giá trị
nhân đạo có sức hấp dẫn, lay động, cổ vũ mọi người đứng
lên đấu tranh nên cần phải đem "hai chữ "Dân quyền"
mà hò hét trong nước, như một tiếng sấm vang,
làm cho bao nhiêu giấc mơ phải tỉnh dậy, mà
dân ta từ nay dần dần mới biết mình có quyền". Thức
tỉnh và giải thoát mọi người thoát khỏi ngực tối
dã man, thoát khỏi thân phận trâu ngựa để
tiến bước trên con đường đi tới văn minh, tự do, "dân
là chủ nước, nước là của dân" là nhiệm vụ cơ
bản của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
Trước thực tiễn của phong trào đấu tranh của
nhân dân ta trong những năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội
Châu là một trong những người đầu tiên sớm nhận thức
được hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò lịch sử
và là chướng ngại trên con đường tiến lên của
dân tộc, ngọn cờ quân quyền cần phải hạ xuống để dương cao
ngọn cờ dân quyền. Trong Việt Nam quang phục quân
phương lược (1912), Phan Bội Châu đã tuyên bố
và chỉ rõ cho mọi người thấy rằng: "Phải xoá
bỏ chính thể quân chủ, vì đó là một
chính thể rất xấu xa . . . Chính thể Dân chủ cộng
hoà là một chính thể rất tốt đẹp . . Quyền
bính của nước nhà là của chung toàn
dân do nhân dân quyết định. Những dấu vết độc hại của
chính thể chuyên chế không còn nữa. Rạng rỡ
thay dân tộc Việt Nam ta! Trên mặt địa cầu, Việt Nam trở
thành một dân tộc hùng cường, hoàn
toàn tự do! Đó là một tôn chỉ tôi quan
trọng" (7)
Với những bằng chứng cụ thể và sinh động của một
số nước phương Tây, Phan Bội Châu đã chứng minh cho
mọi người thấy mối quan hệ mật thiết giữa dân quyền và
quốc quyền. ông viết: "Nhật, Anh, Đức, Pháp, Mỹ đều
là những cường quốc, tức là đều là những nước
mà dân quyền được đề cao. Hình pháp,
chính lệnh, thuế khoá, tiêu dùng đều do nghị
viện quyết định, mà nghị viện thì đều do nhân
dân tổ chức nên, Chính phủ không được can
thiệp vào. Hàng năm đến kỳ nghị viện họp, các nghị
viên tụ tập đông đủ, Chính phủ phải trình
bày dự án trước nghị hội. Nghị hội tức là
nhân dân. Những điều nhân dân cho là
phải, chính phủ không thể không làm; những
điều nhân dân cho là trái, chính phủ
không được làm”.(8)
Theo Phan Bội Châu, dân quyền không
thể tồn tại biệt lập với quốc quyền mà trái lại, giữa
chúng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau,
trong đó dân quyền luôn được ông đề cao. Theo
ông, quốc quyền không phải là một cái
gì siêu tự nhiên mà thực chất là quyền
lực của dân; dân tạo nên quốc quyền; "hình
pháp,
chính
lệnh,
thuế
khóa...
đều
do nghị viện
quyết định, mà nghị viện đều do nhân dân tổ chức
nên"; dân uỷ quyền cho nghị viện để thực thi quyền lực
của mình - dân quyền; có dân quyền thì
mới có quốc quyền; quốc quyền phải là công cụ để
phục vụ dân; dân lập ra quyền lực công cộng để bảo vệ
cho cuộc sống của mình, làm chỗ nương tựa cho
mình. Quan hệ giữa trách nhiệm và quyền lợi của
nhân dân với chính phủ là quan hệ hai chiều,
có đi và có lại, chứ không phải quan hệ một
chiều khắc nghiệt như quan hệ vua với tôi trong học thuyết
chính trị - xã hội của Nho giáo từ Đổng Trọng Thư
trở đi. Bởi vậy, Phan Bội Châu cho rằng: "Chính phủ
phải dựa vào nhân dân để mà được yên,
nhân dân cũng nhờ vào chính phủ mà
có giá trị. Nhân dân có nghĩa vụ
giám đốc chính phủ. Nhân dân mà
làm tròn nghĩa vụ của mình thì chính
phủ không dám làm sai; chính phủ có
nghĩa vụ bảo vệ nhân dân. Chính phủ mà
làm tròn nghĩa vụ của mình, thì nhân
dân không đến nỗi mất chỗ nương tựa. Chính phủ tức
là chỉ đại biểu cho cả nước mà thôi. Còn
cái căn bản, cái then chốt thì toàn
là ở dân". (9)
Như vậy, dân quyền là cái cốt
lõi, là cái cơ sở, là cái then chốt
của quốc quyền, quyền lực của nhà nước phải là quyền lực
của dân. Thể chế cộng hòa chỉ có được khi người
dân là người chủ tối thượng của nhà nước.
Chính phủ trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình phải chịu
sự kiểm soát chặt chẽ của nhân dân để cho dân
quyền được tôn trọng mà không bị thoái
hóa, biến chất trở thành quyền lực độc đoán của
một số cá nhân. Quyền lực nhà nước phải tập trung
thì nhà nước và chính phủ, tức là cả
cơ quan lập pháp và hành pháp mới thực hiện
được nghĩa vụ của mình đối với dân; còn dân
phải có nghĩa vụ kiểm tra nhà nước, giám đốc
chính phủ. Chỉ có thực hiện những nghĩa vụ đó
thì quốc quyền và dân quyền mới được đảm bảo. Bởi
vì, xét về thực chất, dân quyền là cơ sở,
nền tảng của quốc quyền, còn nhà nước không
có quyền mà chỉ là thực hiện sự ủy quyền của
dân.
Theo Phan Bội Châu, trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa chính phủ và nhân dân thì
nhân dân là cái cơ bản và then chốt.
Do đó, nhân dân phải có trách nhiệm
giám sát hoạt động của chính phủ, có như
vậy dân quyền mới được tôn trọng và đề cao. Phan Bội
Châu cho rằng: "Bao nhiêu việc chính trị đều do
công chúng quyết định. Thượng nghị viện phải đợi Trung
nghị viện đồng ý, Trung nghị viện phải đợi Hạ nghị viện đồng
ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số
công chúng có quyền tài phán việc của
Trung nghị viện và Thượng nghị viện. Phàm nhân
dân nước ta không cứ là sang hèn, giàu
nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử.
Trên là vua nên để hay nên truất; dưới
là quan nên thăng hay nên giáng, dân ta
đều có quyền quyết đoán cả".(10) Ở
đây, có thể thấy rằng, mặc dù Phan Bội Châu
chưa nêu lên được cơ chế để thực hiện mối quan hệ giữa
dân quyền và quốc quyền, giữa nhà nước và
nhân dân, giữa nhân dân và chính
phủ một cách rõ nét, vì nền kinh tế -
xã hội của nước ta lúc bấy giờ chưa đủ điều kiện để
làm cơ sở cho việc thực hiện cơ chế đó, nhưng qua những
gì đã được trình bày ở trên cũng
khiến chúng ta phải thán phục trước những yếu tố
tích cực, tiến bộ trong quan niệm của Phan Bội Châu về
dân quyền.
Kể từ năm 1905 trở đi, tôn trọng và đề cao
dân quyền luôn là vấn đề được Phan Bội Châu
quan tâm, bởi lẽ đây chẳng những là vũ khí
mới lạ đối với Phan Bội Châu, mà còn là
khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam, là
yêu cầu của hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong những năm đầu
thế kỷ XX. Dân tộc phải độc lập, quyền lực phải thuộc về
nhân dân. Tư tưởng đó đã phát huy
và tập hợp được sức mạnh của đông đảo quần chúng
nhân dân hướng vào phục vụ cho sự nghiệp cứu nước
giải phóng dân tộc và canh tân đất nước.
|
Theo Phan Bội Châu, dân quyền không tồn tại
biệt lập với dân trí mà trái lại, dân
quyền và dân trí có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Phan Bội Châu cho rằng: "Dân quyền được
tôn trọng là do dân trí đã lên
cao... Nền cộng hòa của nước Pháp, nước Mỹ là do
dân trí mà có; nền lập hiến của Nhật, Anh,
Đức cũng do dân trí mà ra".(11)
Nghĩa là, nâng cao dân quyền phải đi đôi với
nâng cao dân trí. Người dân phải hiểu
và biết sử dụng quyền hạn của mình, phải biết kiểm
soát chính phủ, phải biết đề xuất các ý
kiến với nhà nước để điều chỉnh, bổ sung, sửa chữa chính
sách cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống,
phù hợp với yêu cầu chính đáng của
mình. Đành rằng, "đã có tai thì
có quyền nghe, đã có mắt thì có
quyền dòm, đã có miệng thì có quyền
nói, đã có tay chân thì có
quyền hành động. Nhưng mà lại có một cái
quyền rất là cao quý tức là cái quyền thẩm
phán. Vị thần óc bảo rằng phải là phải. Vị thần
óc bảo rằng trái là trái, điều gì
trái chúng ta nên tránh, điều gì phải
thì chúng ta phải nghe theo. Vị thần óc đó
là một chúa tể cho trong toà pháp luật,
người ta tự do ở trong pháp luật, ấy là chân
chánh tự do; Người ta tự do ở ngoài vòng
pháp luật ấy thì không phải là chân
chánh tự do".(12) Nghĩa là, tự do
là nhận thức được cái tất yếu và hành động
theo cái tất yếu, vì thế mỗi bước tiến của nhận thức con
người cũng chính là một bước tăng tiến của sức mạnh
và quyền lực của con người. Nhận thức rõ vấn đề
này, Phan Bội Châu đã từng thốt lên rằng: "Than
ôi!
Dân
trí
có
công
với
dân quyền
lớn vậy thay!".(13)
Theo Phan Bội Châu, dân quyền phải dựa vào
dân trí. Người dân cho dù có quyền lực
nhưng không có tri thức thì làm sao đủ điều
kiện để nhận thức, để bàn luận, để đề xuất để kiểm tra? Nếu
có thì cũng chỉ là hình thức mà
thôi. Dân quyền phải gắn chặt với dân trí.
Đó là yêu cầu vừa có tính cấp thiết,
vừa có tính lâu dài. Do đó,
nâng cao dân trí là một trong những nhiệm vụ
chiến lược trong tư tưởng của Phan Bội Châu. Dân quyền sẽ
được đề cao trên cơ sở nâng cao dân trí. Trước
thực trạng của dân trí nước nhà, Phan Bội
Châu cho rằng cần phải nhanh chóng xóa bỏ hủ tục,
đổi mới giáo dục, xóa bỏ tính ỷ lại, xây
dựng "não chất độc lập", xóa bỏ sự ngu dại, sự nghi kỵ,
sự chia lìa, xây dựng niềm tin trên cơ sở khoa học
để cùng hợp lực bàn tính, thực hiện những
công việc chung, đấu tranh vì lợi ích chung. Bởi
vì, thực tế cho thấy, không thể có dân quyền
thực sự khi người dân chưa thoát khỏi sự mê muội
và tăm tối về trí tuệ; trình độ dân
trí thấp kém thì khó mà tôn
trọng và đề cao dân quyền; trình độ dân
trí thấp kém thì người dân khó
mà sử dụng một cách chủ động và tối đa quyền lực
của mình.
Quan điểm dân quyền nói trên thể hiện
yêu cầu cần phải giải phóng mọi người thoát khỏi hệ
tư tưởng phong kiến, thoát khỏi nạn "óc đói"; thức
tỉnh mọi người, nâng cao trình độ và sự giác
ngộ cho mọi người; chủ động tiếp thu những giá trị tinh hoa của
nhân loại, đặc biệt là tư tưởng dân chủ và
dân quyền của phương Tây. Quan điểm này còn
thể hiện sự chuyển biến tích cực mới mẻ trong tư tưởng của Phan
Bội Châu, từ quân chủ sang dân chủ, từ quân
quyền sang dân quyền, từ tôn quân sang tôn
dân. Và, ở một mức độ nào đó, xét
theo khuynh hướng phát triển, có thể nói, từ
xã hội thần dân sang xã hội công dân.
Dân quyền gắn liền với dân trí, vì
vậy nâng cao dân trí là yêu cầu sống
còn của dân tộc và là xu hướng phát
triển tất yếu trên con đường đi đến văn minh, phú cường.
Quyền lực của nhà nước thực chất là quyền lực của
dân. Bởi thế, pháp luật của nhà nước nếu
không dựa vào trí tuệ thì chỉ là
cưỡng bức thô thiển và không thể tồn tại lâu
dài được. Nếu không dựa trên trình độ
dân trí thì dân quyền chỉ là
hình thức, pháp luật của nhà nước chỉ là sự
áp đặt từ bên trên và bên ngoài
chứ không phải do nhu cầu nội tại của mỗi người dân trong
đời sống xã hội. Theo Phan Bội Châu, hình
pháp văn minh phải dựa vào giáo dục, dựa
vào trình độ dân trí thì mới
lâu bền và tạo được sự tự giác từ bên trong.
ông viết: "Giáo dục cũng là cái gốc để
gây dựng nền chính trị. Thuế khoá, hình
pháp mọi sự đều do đó mà định". (14)
Hoạt động chính trị phải dựa trên tri thức, nâng cao
trình độ học vấn của người dân là cơ sở vững chắc
để xác lập vị thế, sự sống còn, sự giàu mạnh của
đất nước cũng như của mỗi người dân. Phan Bội Châu viết: "Phàm
người
trong
một
nước
mà
giàu
mạnh được có thể
cùng thế giới tranh đua, giành sự sống còn, tất
phải lấy giáo dục làm cơ sở." (15)
Tư tưởng của Phan Bội Châu về vấn đề dân quyền cần
trí tuệ, dân quyền phải đồng hành với dân
trí, thể hiện tầm nhìn chiến lược của ông trong
việc xây dựng thực lực phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc. Phan Bội Châu cho rằng, dân
trí lên cao thì dân quyền được tôn
trọng, dân quyền được tôn trọng thì nước mạnh. Điều
đó có nghĩa là, dân trí cao
thì nước mạnh, dân trí thấp thì nước yếu.
Tương đồng với tư tưởng đó, sau này, Hồ Chí Minh
có quan điểm: "Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu".
Dân quyền, dân trí, văn minh của nước
nhà là một thể thống nhất không thể chia cắt
và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nước Việt Nam phải
do người Việt Nam làm chủ bằng bản lĩnh và trí tuệ
của mình.
Trí tuệ cần phải được nâng lên thông
qua con đường giáo dục. Bởi vì, "dân là
chủ nước, nước là của dân". Với khẳng định đó,
Phan Bội Châu tin tưởng rằng: "Sau khi duy tân rồi,
thì dân trí sẽ mở mang, dân khí sẽ lớn
mạnh, dân quyền sẽ phát đạt; vận mệnh nước ta do dân
ta nắm giữ".(16) Nâng cao dân trí
cũng là giải pháp để đòi lại dân quyền. Vậy
làm thế nào để nâng cao dân trí? Theo
Phan Bội Châu, giáo dục là cái gốc để
gây dựng nền chính trị, là khuôn đúc
người, là biện pháp hữu hiệu nhất, là phương thuốc
tốt nhất để nâng cao trình độ dân trí.
Vì thế, xã hội phải quan tâm đến giáo dục,
giáo dục là quyền được học của người dân. Phan Bội
Châu viết: "Mọi việc mà dân ta cần học đều mời
thầy, mở trường để cho người nước ta bất kỳ giàu nghèo
sang hèn, trai gái hễ từ năm tuổi trở lên,
thì vào học ở trường ấu trĩ viện; để chịu sự giáo
dục của bậc ấu trĩ; tám tuổi trở lên, thì
vào học ở trường tiểu học, để chịu sự giáo dục của bậc
tiểu học; mười bơn tuổi trở lên, thì vào học ở
trường trung học, để chịu sự giáo dục của bậc trung học; đến
tuổi mười tám thì tài chất đã khá,
thì vào trường cao đẳng, để chịu sự giáo dục của
trường cao đẳng chuyên nghiệp". (17)
Nhận thức được rằng, tri thức đem lại quyền lực và sức
mạnh cho con người, còn học tập được coi là sự tạo lập
quyền lực của người dân, Phan Bội Châu cho rằng, mọi người
trong nước ai cũng phải đi học, chi phí học tập cho mọi người
đều do nhà nước và xã hội gánh chịu; nội
dung giáo dục phải gắn với cuộc sống, phải hướng đến bồi dưỡng
lòng yêu nước, khai dân trí, giúp
dân quyền. Giáo dục phải giúp cho con người
làm chủ vận mệnh của nước nhà, chứ không phải giống
như nền giáo dục đương thời mà thực dân Pháp
thực hiện ở nước ta nhằm biến người dân Việt Nam thành
những con trâu, con ngựa ngoan ngoãn những tên
nô lệ mắt mù, tai điếc, chân tay tê liệt,
những kẻ chỉ biết cúi đầu phục tùng. Quan niệm này
của Phan Bội Châu không những có tác dụng lay
động, thức tỉnh nhân dân ta, mà còn dấy
lên các phong trào Duy tân, Đông du
hoạt động khá sôi nổi ở nước ta, trong hai thập niên
đầu của thế kỷ XX. Nó còn đáp ứng được khát
khao cháy bỏng về một nước Việt Nam mới do người Việt Nam
làm chủ.
Theo Phan Bội Châu, dân quyền là quyền lực
và nhu cầu của người dân, là giá trị của con
người cần phải được khẳng định bằng các văn bản nhà nước
nhằm đảm bảo và tăng cường hiệu lực thực hiện. Do đó,
Phan Bội Châu thấy rằng, cần phải có một bản Hiến
pháp của nước Việt Nam. Năng 1929, ông đã soạn thảo
xong bản Hiến pháp đó. Tiếc rằng, bản Hiến pháp
này được soạn thảo trong điều kiện nước nó chưa
giành được độc lập. Song, điều đáng nói ở
đây chính là sự nhạy cảm trong tư duy chính
trị - pháp lý của Phan Bội Châu so với những người
cùng thời ông. Tóm lại, mặc dù có
những hạn chế nhận định, nhưng quan niệm của Phan Bội Châu về
dân quyền chứa đựng một nội dung kỳ phong phú và
đặc sắc. Quan niệm đó góp phần đưa trình độ nhận
thức của dân tộc ta chuyển biến và phát triển
lên mà bước mới, đồng thời để lại một dấu ấn đậm
nét trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
(1) Phan Bội Châu. Toàn
tập, t.2. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1990, tr.89.
(2) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.4.
tr.89.
(3) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.261.
(4) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.286.
(5) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.4.
tr.32.
(6) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.4.
tr.32.
(7) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.3.
tr.135.
(8) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.357.
(9) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.387.
(10) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.255
-
256.
(11) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.391
-
392.
(12) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.4.
tr.60.
(13) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.392.
(14) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.261.
(15) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.525
-
526.
(16) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.255.
(17) Phan Bội Châu. Sđd.,
t.2.
tr.262.
Nguồn: Tạp chí
Triết học
Quan niệm của Phan Bội Châu về bản
tính của con người
|
Nguyễn Văn Hòa
Tạp chí Triết học |
|
|
Trong truyền thống tư tưởng của dân tộc Việt Nam,
vấn đề con người luôn gắn liền với vấn đề dân tộc. Đặc
biệt, mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy thì sự cố kết đó
càng trở nên bền chặt hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, con người
là yếu tố quyết định trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp nối và phát
huy truyền thống đó, Phan
Bội Châu - nhà tư tưởng tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam trong khoảng hai chục năm đầu của thế kỷ XX đã để lại
dấu ấn khá đậm nét về vấn đề con người trong lịch sử tư
tưởng của dân tộc. "Cùng thời với Phan Bội Châu,
không thấy ai đả động tới vấn đề con người nhiều bằng Sào
Nam, riêng điều ấy cũng chứng tỏ rằng tư tưởng của cụ Phan rõ cao hơn tư
tưởng nhiều bạn đồng chí của mình".
Một nội dung có ý nghĩa quan trọng trong
vấn đề con người là vấn đề bản tính của con người. Vấn đề
này đã được đặt ra từ thời cổ đai. Là nhà
Nho yêu nước thấm nhuần truyền thống nhân nghĩa của
dân tộc, Phan Bội Châu
cơ bản nhất trí với quan điểm của Mạnh Tử về vấn đề bản chất của
con người, đó là: "Bản tính con người là
thiện", là "thiên lương". Tuy thống nhất với Mạnh Tử như
vậy, nhưng không phải Phan
Bội Châu không có
cách kiến giải độc đáo riêng của mình về vấn
đề đó. Khi đưa ra căn cứ để lý giải tính bản thiện
của con người, Phan Bội
Châu cũng nêu ra bốn thuộc tính bẩm sinh vốn
có hay bốn đầu mối của thiện, đó là: lòng
thị phi (biết phải, trái), lòng tu ố (biết hổ thẹn),
lòng tự nhượng (biết cung kính), lòng trắc ẩn
(biết xót thương). Bốn thuộc tính đó được gọi
là "tứ đoan", hay "thiện đoan” để giải thích bản
tính của con người. Điều đáng quý là
cách lý giải của Phan
Bội Châu chứa đựng một tấm lòng yêu nước thiết tha,
một khát vọng cháy bỏng vì độc lập, tự do cho đất
nước, một niềm tin mãnh liệt vào lương tâm
và trí tuệ của con người Việt Nam mỗi khi nó được
đánh thức bởi nghĩa lớn của quốc gia. Ở Phan Bội Châu,
bốn
đầu
mối
của
thiện luôn luôn hướng đến nghĩa lớn. Bởi
thế, vì một lý do nào đó mà
chúng ta đau thương nhất, vì lòng thiện mất
thì nghĩa lớn không thành và nước sẽ mất. Phan Bội Châu
viết: “Vì lợi ích chăm đua riêng để quên
người khác mà lòng thị phi chế! Vì cầu an
nhịn nhục mà lòng tu ố chết. Tranh nhau từng sợi tơ
tóc mà lòng tự nhượng chết. Quên cái
vạ chủng tộc mà lòng trắc ẩn chết. Mà mỗi khi
lòng đã chết rồi thì đoàn thể làm
sao có thể kết được? Nghĩa lớn làm sao có thể
nêu cao được? Quyền công do lợi riêng mà
phá hoại. Cái lo xa do lợi gần nước mắt che đậy".
Theo Mạnh Tử, bản tính của con người là
thiện, vì ai cũng có tâm. Tâm là
cái chủ đạo điều khiển mọi hành vi của con người.
Tâm ta tỏ là nhờ có "lương năng" (cái người
ta sinh ra không cần học mà hay và "lương tri "
(cái người ta sinh ra không cần suy nghĩ mà biết).
Do đó, con đường, biện pháp và mục đích của
nhận thức là tận tâm, tri tính, tri thiên.
Còn đối với Phan Bội Châu
thì sao? Ông không đề cập đến "lương tri, lương
năng" mà nhấn mạnh đến vai trò của giáo dục,
rèn luyện, đến sức mạnh của sự đoàn kết vì lợi
ích chung của
dân tộc, để tồn tầm dưỡng tín. Phan Bội Châu cho rằng
chữ "tâm" phải luôn luôn đi liền với chữ “đồng”
và điều cốt yếu của tâm là đồng lòng đấu
tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông nhắc nhở
mọi người rằng: "Chữ "tâm" cốt phải ai ai cũng đồng". Đồng
tâm vì nghĩa lớn của dân tộc trở thành một
yêu cầu ghi lòng tạc dạ đối với mọi người Việt Nam
và hơn thế nữa, ai ai cũng phải có tránh nhiệm vun
đắp cho sự đồng tâm đó.
Theo Mạnh Tử, bản tính của con người được
toát ra 'từ các hành vi xử sự lấy nhân,
nghĩa, lễ, trí làm gốc. Bốn chuẩn mực này
là cái vốn có do trời phú cho nên
còn gọi lả "thiên lương". Phan
Bội Châu cũng thừa nhận bốn
chuẩn mực đó có trong nhân tính. Nhưng đối
với Phan Bội
Châu, phạm trù "nhân" không chỉ là
yêu thương người, coi người như mình, tôn trọng
nguyên tắc của xã hội, mà còn bao chứa nhiều
mặt, nhiều yếu tố phong phú và mang một ý nghĩa
tích cực, sâu sắc. Bởi lẽ , lòng yêu thương
con người phải hướng đến lòng yêu nước thương nòi.
Lông yêu nước chẳng những là phẩm chất cao
quý của con người mà còn là trách
nhiệm và mục đích của mọi suy nghĩ và hành
động của con người. Trong "Hoà lệ cống ngôn" (1907), Phan Bội Châu viết:
"Lấy nhiệt thành làm chính, lấy yêu nước
làm mục đích, nhóm họp đoàn thể, trao đổi
tri thức, phục tùng công lý, sứa đạo đức công
dân, lập giao ước công dân, xướng quyền lợi
công dân, giúp đỡ nhau, thương yêu nhau,
không ghét nhau, không lừa dối nhau, không
khinh khi nhau”.
Trong tác phẩm "Tạp ký", ông
còn tiếp tục vạch rõ lòng yêu nước thương
nòi là mục đích, bởi nó là nguồn gốc
của tự do, độc lập, bình đẳng và tự cường. Như
chúng ta đã biết, vấn đề tự do, bình đẳng
là mục tiêu của giai cấp tư sản đã nêu
lên nhưng không thực hiện được. Ở đây, Phan Bội Châu đã
đưa ra mục tiêu đó và cho rằng nó trở
thành yêu cầu và khát vọng không thể
thiếu được trong mỗi con người Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng
trong khi phát huy truyền thống nhân nghĩa của dân
tộc, Phan Bội
Châu còn biết tiếp thu những yếu tố tích cực trong
các trào lưu tư tưởng phương Tây, trong đó
có tư tưởng tự do và bình đẳng. Sẵn có một
tấm lòng yêu nước thiết tha, Phan Bội Châu đã
sớm có cảm tình và say mê với những tư tưởng
của Môngtexkiơ và Rútxô.
Đối với Phan
Bội Châu, lòng yêu nước không phải là
một cái gì hư vô, trừu tượng, mà nó
được bắt nguồn từ những cái rết gần gũi, rất cụ thể và
rất đỗi chân thật đối với mỗi người. Chính ông
dã tự đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi
đó một cách tự nhiên và giản dị như mạch
sống của chính mình: "Ôi! Nước là gì?
Là họp người mà thành, họp ức triệu người lại
mà thành.
Yêu nước là tính gì?
Là suy cái lượng yêu mình, yêu
nhà mà thành vậy.
Nước còn thì nhà còn, nước
mất thì nhà mất. Nước vốn là đầu não của
mình ta, nền tảng của ta vậy...
Người biết có mình thì ắt yêu
mình, yêu nước tức là cái hình ảnh
yêu mình phóng đại ra vậy.
Người đã có mình, có
nhà thì đều có trách nhiệm yêu nước”.
Như vậy, yêu người là cơ sở nền tảng của
yêu nước, yêu mình, yêu nhà.
Chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, hoà nhập
vào nhau một cách tự niên. Chúng vừa đồng
nghĩa với nhau, lại vừa là nguyên nhân và kết
quả của nhau. Vì thế, triết lý của cuộc sống là
nước mất thì nhà tan, cứu nước cũng là cứu
nhà và cũng là tự cứu lấy mình, giải
phóng dân tộc thoát khỏi gông xiềng nô
lệ cũng chính là tự giải phóng cho mình.
Lòng yêu thương con người đến mức như thế quả là
đặc sắc và thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả trong truyền
thống dân tộc Việt Nam. Quan điểm này có tác
dụng kích thích tính năng động chủ quan của mỗi
con người và củng cố thêm những giá trị bền vững,
những tinh hoa vun đắp nên qua hàng ngàn năm lịch
sử của dân tộc.
Từ lòng yêu thương phát triển
thành lòng yêu nước thương nòi cũng
là vì nghĩa cả của dân tộc. Phan Bội Châu
viết: "Hiểu được nghĩa đồng bào thì quốc gia càng
thêm đầy đủ, mà ngày càng mạnh thêm.
Đã biết đồng quốc là đồng bào thì biết hạnh
phúc của người cùng nước, tức là hạnh phúc
của đồng bào ta, tức là hạnh phúc của bản
thân ta. Hạnh phúc của bản thân ta, chỉ khi
nào tất cả đồng bào đều sung sướng, khi đó mới
có thể nói hạnh phúc chân chính của
ta được. Vì cả đồng bào mà mưu hạnh phúc
thì dù có hy sinh bản thân cũng không
nên tiếc. Không phải như thế lả không thương tiếc
thân ta, mà chính ra rất thương tiếc thân ta
đấy. Vì hạnh phúc đã khắp đồng bào
thì bản thân ta khoái lạc và vinh quang mới
rất mực vậy. Bởi thế cho nên những người đã rất yêu
bản thân thì rất yêu đồng bào, mà
đã rất yêu đồng bào tất yêu quốc gia,
mà đã thật yêu quốc gia tất hy sinh vì quốc
gia mà bỏ hết sự tư lợi của mình, đem hết sức mình
ra bảo vệ tổ quốc. Nghĩa đồng bào thực là nguyên
khi của quốc gia vậy. Ở đây, yêu nước là yêu
đồng bào, yêu mình, lợi ích của quốc gia
phải gắn liền với lợi ích của đồng bào và của bản
thân. Như vậy, trong quan niệm của Phan Bội Châu, con
người vừa có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Tổ quốc
và đồng bào, lại vừa tự ý thức được về mình
- để tự mình quan tâm và giải quyết những vấn đề do
cuộc sống đặt ra, tự mình vươn lên thích ứng với
hoàn cảnh.
Coi trọng nhân nghĩa là đạo lý
truyền thống Việt Nam.
Nhận
thức
đầy
đủ
ý nghĩa của giá trị truyền thống
đó, Phan Bội
Châu, một mặt, khuyến khích mọi người làm những
điều nhân ngay đối với mình, đối với gia đình
và đối với xã hội, mặt khác, ông còn
khuyên mọi người phải có trách nhiệm thực hiện tốt
nghĩa vụ của mình vì lợi ích chung, vì hạnh
phúc của dân tộc, trong đó có cả gia
đình và cá nhân. Người có nghĩa lớn
là người dám chấp nhận hy sinh cho sự sống còn của
dân tộc. Đối với Phan
Bội Châu, nghĩa đồng bào
chẳng những là nguyên khí của quốc gia mà
còn là thiên chức của con người Việt Nam.
Đó là vốn quý của con người Việt Nam và
là một trong những nguồn cội tạo nên sức mạnh của
dân tộc Việt Nam.
Nhân tính là yêu nước,
nhân tính là nghĩa đồng bào, nhân
tính là trí tuệ , nhân tính là
bình đẳng. Ngay trong tác phẩm "Tạp ký", Phan Bội Châu đã
giải thích sự bình đăng là một thuộc tính
tự nhiên vốn có của con người, nên mọi người sinh ra
đều có địa vị như nhau, do đó, không ai được tự đặt
mình lên trên người và phân biệt đối xử
giữa các hạng người. Ông viết: “Trời sinh ra người,
có hình thể như nhau, có tính tình
như nhau, ta không dám cậy mình là
thánh thần mà bỏ những lời nói hay của người, ta
không dám cậy khôn ngoan mà bỏ những nết tốt
của người. Đấy là bụng nghĩ bình đẳng đã có
mầm mống rồi đấy, duy người ta giẫm đạp lên mà không
biết đấy thôi".
Như vậy, ta thấy rằng, tư tưởng trên của Phan Bội Châu
đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của quan niệm dân chủ tư
sản phương Tây.
Theo
Phan Bội Châu,
nguồn
gốc
và
tôn
chỉ của tự do là lòng
yêu nước thương nòi. Vì thế, tự do là lẽ
phải, là nhu cầu chính đáng của con người, tự do
là cái lý mà không một thế lực
nào có thể ràng buộc và ngăn cản nổi.
Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ giành
được tự do vì đó là một việc làm đầy
nhân tính và hợp với đạo lý. Còn
những kẻ đi tước đoạt tự do của người khác thì sớm hay
muộn sẽ bị tiêu diệt vì đó là những kẻ
nát nhân tính, phi đạo lý. Với Phan Bội Châu, tự do
vừa là đạo lý, vừa là khát vọng của con
người, nên lẽ đương nhiên là người Việt Nam
không bao giờ chấp nhận làm thân phận của kẻ
nô lệ, mà trái lại, phải vùng dậy đấu tranh
vì độc lập, tự do của dân tộc. Có thể nói
rằng tư tưởng về tự do như vậy đã góp phần thắp
sáng lên niềm tin mãnh liệt và tinh thần
quật cường của dân tộc, vào sức mạnh của chính
nghĩa và làm bùng lên khát vọng tự do
vốn âm ỉ, nung nấu trong tâm hồn của mỗi con người Việt
Nam. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của Nho giáo nên Phan Bội Châu thường
nhấn mạnh tự do là hành động theo các quy tắc,
chuẩn mực đạo đức - gần với khuôn phép của lễ giáo
phong kiến.
Đến đây, chúng ta có thể thấy
rõ nội hàm của khái niệm "thiên lương" trong
quan niệm của Phan Bội
Châu không chỉ bó hẹp trong chuẩn mực nhân,
nghĩa, lễ , trí, mà nó được mở rộng, đào
sâu và được nâng lên bởi các chuẩn mực
giá trị mới trên cơ sở tiếp thu những yếu tố tích
cực của tư tưởng tư sản phương Tây, của chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam và của Nho giáo. Bên cạnh con
người cộng đồng, còn có con người cá nhân.
Giữa con người cộng đồng và con người cá nhân
có quan hệ mật thiết với nhau. Quan niệm này đã
có ý nghĩa tích cực trong việc phát hiện
và huy động sức mạnh vốn có của con người Việt Nam
vào sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Song,
đáng tiếc là Phan
Bội Châu chưa đủ điều kiện để vươn lên tiếp nhận ánh
sáng của quan điểm macxít về bản chất của con người,
mà trong "Luận cương về phoiơbắc", C.Mác đã viết:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Phan Bội Châu chưa
lý giải được bản chất xã hội của con người, chưa vạch ra
được nguyên nhân xã hội là nguyên
nhân sâu xa nhất, cơ bản nhất tạo ra nỗi bất hạnh của con
người, hay chưa thấy đấu tranh giai cấp là để đi đến giải
phóng loài người thoát khỏi áp bức
và là một trong những động lực thúc đây sự
phát triển của xã hội có giai cấp. Cũng qua đầy,
chúng ta nhận thấy: "Thuyết thiên lương của Phan Bội Châu
phản ánh lòng tin mãnh liệt vào tinh thần
dân tộc của đồng bào, vào khả năng cách mạng
của nhân dân. Nhưng đây cũng là một nhược điểm
của Phan Bội
Châu: cụ không biết hay không muốn biết rằng nếu
có những tầng lớp xã hội triệt để yêu nước
và cách mạng nào cũng có những tầng lớp
xã hội khác lừng chừng đối với kẻ xâm lược,
và lại còn kẻ dù là người Việt Nam vẫn
ôm chân bọn thực dân ngoại quốc. Cụ không biết
giai cấp và đấu tranh giai cấp là gì, quan hệ với
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc như thế
nào, cho đến đỗi cụ cho rằng bọn Hoàng Cao
Khải, Nguyễn
Thân "cũng còn có lương tâm yêu nước".
Dưới góc độ ấy thuyết ‘thiên lương" trở thành
hàm hồ, nguy hiểm". Chính điều này đã được Phan Bội Châu
thừa nhận trong "Lời tự phán": Đối đãi với người
quá chừng thật, thường bảo trong thiên hạ không một
người nào không tin được. Đó là tội
vì không cơ cảnh quyền thật”.
Những hạn chế trên đây không
làm mất đi nét riêng biệt đặc sắc trong tư tưởng
của Phan Bội Châu
về bản tính của con người. Xuất phát từ chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam
là truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, trên
cơ sở tiếp thu những yếu tố tích cực trong các
trào lưu triết học phương Tây, P han
Bội
Châu cho
rằng, bản tính con người là "thiên lương".
Hàm chứa trong khái niệm "thiên lương" là
những dấu hiệu cơ bản mà ở đó, ngoài dấu hiệu
trước đây Nho giáo đã từng nêu lên,
còn có những dấu hiệu mới như tự do, bình đẳng...
Tất cả những dấu hiệu đó đều thấm đượm chủ nghĩa yêu nước,
đều hướng tới một mục đích chung
là khơi đậy và phát huy nguồn sức mạnh của con
người Việt Nam
vào sự nghiệp cứu nước giải phóng đồng bào. Bởi
vậy "thiên lương" ở đây vừa mang đậm giá trị truyền
thống, lại vừa phong phú và hiện đại hơn so với quan niệm
trước đây.
Nguồn: Tạp chí
Triết học
|
Trang mạng Việt Nam Văn Hiến
Trang Dân Quyền
www.vietnamvanhien.net
email: thuky@vietnamvanhien.net
Lấy Nhân Tâm làm phương
tiện, dụng Dân Tâm làm chiến lược quốc phòng
và quốc sách " An Dân - Lạc Quốc"
|