Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm Thứ 4888
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
Trang Dân Chủ
Mục Lục
1- Dân Chủ
2- Nền Tảng cuả Thể Chế Dân Chủ
3- Vận Động Can Thiệp Dân Chủ tại Việt Nam
4- Dân Chủ : Lương Tri và Định Chế
5- Việt Nam có Dân Chủ Không?
|
Dân Chủ
Tư liệu dịch: Chính trị, xã hội
và văn
hóa Mỹ
Ấn phẩm
của Chương
trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngọai giao Hoa Kỳ,
tháng 12/2007
Đề Mục:
DÂN
CHỦ
LÀ
GÌ?
Dân chủ - theo
tiếng Hy Lạp
có nghĩa là “nhân dân” - về cơ bản được định
nghĩa là một hình thức chính phủ trong đó
quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Dân chủ
có thể do người dân trực tiếp thực thi. Ở các
xã hội lớn hơn, dân chủ được thực thi bởi các quan
chức do nhân dân bầu ra. Hay theo như câu nói
nổi tiếng của Tổng thống Abraham Lincoln, dân chủ là
chính phủ “của nhân dân, do dân và
vì dân”.
Tự do và
dân chủ
thường được dùng thay thế cho nhau. Thực ra hai khái niệm
này không đồng nghĩa. Dân chủ không chỉ
là một loạt ý tưởng và các nguyên tắc
về tự do, mà còn bao hàm cả những thực tiễn
và các tiến trình đã được hình
thành trong suốt chiều dài lịch sử vốn phức tạp.
Dân chủ là sự thể chế hóa tự do.
Cuối cùng, người
dân
sống trong một xã hội dân chủ phải phục vụ với tư
cách là người bảo vệ chính quyền tự do của họ
và hướng tới những lý tưởng được đưa ra trong lời
nói đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn
cầu của Liên Hợp Quốc, đó là “thừa nhận phẩm
giá vốn có và những quyền bình đẳng bất khả
xâm phạm của mọi thành viên trong đại gia
đình nhân loại là nền tảng của tự do, công
lý và hòa bình trên thế giới”.
NHỮNG ĐẶC
ĐIỂM CỦA DÂN CHỦ
Dân chủ
không chỉ
đơn thuần là một loạt thể chế quản lý cụ thể. Dân
chủ dựa trên nhóm giá trị, quan điểm và thực
tiễn đã được nhận thức rõ. Tất cả các giá
trị, quan điểm và thực tiễn đó được thể hiện dưới những
hình thức khác nhau tùy theo nền văn hóa
và các xã hội trên thế giới. Các nền
dân chủ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản chứ
không phải những thực tiễn thống nhất.
Những
đặc
điểm
dân
chủ cơ bản
- Dân chủ
là
hình thức chính phủ trong đó quyền lực và
trách nhiệm công dân do công dân trưởng
thành trực tiếp thực hiện hoặc thông qua các đại
diện của họ được bầu lên một cách tự do.
- Dân chủ
dựa
trên các nguyên tắc đa số cai trị và
các quyền cá nhân. Các nền dân chủ
chống lại các chính phủ trung ương tập quyền và
phi tập trung hóa chính quyền ở cấp khu vực và địa
phương, với nhận thức rằng tất cả các cấp độ chính quyền
đều phải được tiếp cận và phải đáp ứng người dân
khi có thể.
- Các nền
dân
chủ nhận thức rằng một trong những chức năng chính của họ
là bảo vệ các quyền con người cơ bản như tự do ngôn
luận và tự do tôn giáo; quyền được pháp luật
bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ chức và tham
gia đầy đủ vào đời sống kinh tế, chính trị và văn
hóa của xã hội.
- Các nền
dân
chủ thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và
công bằng cho công dân ở độ tuổi bầu cử tham gia.
- Công
dân ở một
nền dân chủ không chỉ có các quyền, mà
còn có trách nhiệm tham gia hệ thống chính
trị. Đổi lại, hệ thống chính trị đó bảo vệ các
quyền lợi và sự tự do của họ.
- Các
xã hội
dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp
tác và thỏa hiệp. Theo lời của Mahatma Gandhi:
“Không khoan dung là biểu hiện của tình trạng bạo
lực và cản trở phát triển tinh thần dân chủ thực
sự”.
Hai
hình
thức
dân
chủ
Có hai loại
hình dân chủ cơ bản, đó là dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Trong nền dân chủ
trực tiếp, công dân có thể tham gia quyết định
công việc chung mà không có sự can thiệp của
các quan chức được bầu lên hoặc được bổ nhiệm. Hình
thức dân chủ trực tiếp thực tế nhất nếu áp dụng cho một
nhóm ít người như một tổ chức cộng đồng, hội đồng bộ lạc,
hoặc đơn vị địa phương của một liên đoàn lao động.
Thành viên các nhóm này có thể
gặp gỡ nhau để bàn bạc các vấn đề và đi đến quyết
định bằng sự đồng thuận hoặc biểu quyết đa số.
Bên cạnh
đó, một
số bang ở Mỹ cho phép đưa ra trên phiếu bầu “đề xuất”
và “trưng cầu dân ý” - yêu cầu thay đổi luật
- hoặc yêu cầu bầu lại các quan chức đã được bầu
trong các cuộc bầu cử bang. Những hoạt động này là
biểu hiện của hình thức dân chủ trực tiếp, tức là
bày tỏ ý chí của đại bộ phận dân
chúng. Có nhiều thực tiễn khác mang yếu tố của nền
dân chủ trực tiếp. Ở Thụy Sĩ, nhiều quyết định chính trị
quan trọng về các vấn đề, trong đó có y tế, năng
lượng và việc làm, là những vấn đề lấy biểu quyết
của dân chúng cả nước. Một số người có thể cho rằng
Internet đang tạo ra những hình tức dân chủ trực tiếp mới,
vì nó cho phép các nhóm chính
trị gây quỹ cho sự nghiệp của họ bằng cách trực tiếp
lôi cuốn những người cùng chung chí hướng.
Tuy nhiên,
ngày
nay cũng như trong quá khứ, hình thức phổ biến nhất của
dân chủ - dù là của một thành phố với 50.000
dân hay một quốc gia 50 triệu dân - là hình
thức dân chủ đại diện. Công dân bầu lên
các quan chức để đưa ra các quyết định chính trị,
xây dựng luật và điều hành các chương
trình vì lợi ích chung.
Nguyên
tắc
đa
số
và quyền thiểu số
Tất cả các
nền
dân chủ đều là những hệ thống trong đó công
dân tự do đưa ra các quyết định chính trị theo
nguyên tắc đa số. Theo lời của nhà văn Mỹ E.B. White:
“Dân chủ là một niềm tin rằng đa số mọi người đều
đúng trong hầu hết các trường hợp”.
Bản thân
nguyên
tắc đa số không tự động mang tính dân chủ. Ví
dụ, không thể nói một hệ thống là công bằng
nếu nó cho phép 51% dân số đàn áp 49%
dân số còn lại nhân danh đa số. Trong một xã
hội dân chủ, nguyên tắc đa số phải gắn với việc đảm bảo
các quyền của cá nhân con người. Đổi lại,
các quyền của người thiểu số và những người bất đồng sẽ
được bảo vệ - dù đó là những người thiểu số,
tôn giáo hay đơn giản là những người thua trong
các cuộc tranh luận chính trị. Quyền của các
nhóm thiểu số không phụ thuộc vào thiện chí
của đa số và cũng không bị tước bỏ bởi nguyên tắc đa
số. Quyền của các nhóm thiểu số được bảo vệ bởi vì
luật pháp và các thể chế dân chủ bảo vệ
quyền của mọi công dân.
Các
nhóm thiểu
số phải tin tưởng chính phủ bảo vệ các quyền và sự
an toàn của họ. Một khi điều này được thực hiện,
các nhóm đó có thể tham gia và
đóng góp vào việc xây dựng các thể
chế dân chủ của đất nước. Nguyên tắc đa số và quyền
thiểu số là đặc trưng của tất cả các nền dân chủ.
Những khác biệt về lịch sử, văn hóa, dân số
và kinh tế không ảnh hưởng đến những đặc trưng này.
Đa
nguyên
và
xã
hội dân chủ
Trong một nền
dân chủ,
chính phủ chỉ là một đầu mối trong mạng lưới xã
hội gồm rất nhiều thể chế công và tư, các cơ quan
luật pháp, các đảng phái chính trị,
các tổ chức và các hiệp hội. Sự đa dạng này
gọi là đa nguyên. Điều này có nghĩa
là các nhóm và các thể thế trong một
xã hội dân chủ không phải phụ thuộc vào
chính phủ mới được tồn tại, mới mang tính hợp pháp
hoặc mới có quyền lực. Hầu hết các xã hội
dân chủ đều có hàng ngàn các tổ chức
tư nhân ở cấp địa phương và cấp bang. Nhiều tổ chức trong
số này có vai trò trung gian giữa các
cá nhân và các thể chế xã hội
và chính phủ phức tạp của xã hội, thực hiện những
vai trò không phải của chính phủ và mang đến
cho cá nhân cơ hội để trở thành một phần trong
xã hội mà không cần phải tham gia vào
chính phủ.
Trong một
xã hội độc
tài, hầu hết những tổ chức như vậy sẽ bị kiểm soát, kiểm
duyệt, theo dõi và nếu không thì phải chịu
trách nhiệm trước chính phủ. Ở một nền dân chủ,
theo luật pháp quy định, quyền lực của chính phủ được
xác định rõ và rất hạn chế. Do vậy, các tổ
chức tư nhân về cơ bản không chịu sự kiểm soát của
chính phủ. Trong khu vực tư nhân bận rộn này của
xã hội dân chủ, công dân có thể
tìm kiếm khả năng tự hoàn thành ước nguyện của
mình và thực hiện trách nhiệm đối với một cộng
đồng mà không chịu sự kiểm soát có thể rất
mạnh từ phía nhà nước hoặc phải tuân theo ý
chí của những người có ảnh hưởng, quyền lực hoặc
tuân theo đa số.
CÁC
QUYỀN
VÀ
NGHĨA VỤ
Các nền
dân chủ
dựa trên nguyên tắc: chính phủ tồn tại để phục vụ
nhân dân. Nói cách khác, người
dân là những công dân của nhà nước
dân chủ, chứ không phải là những người bị
giám sát. Do nhà nước bảo vệ các quyền của
công dân, nên đổi lại công dân trung
thành với nhà nước. Ngược lại, trong hệ thống
chuyên quyền, nhà nước yêu cầu dân
chúng phải trung thành và phục vụ nhà nước
mà không có nghĩa vụ có đi có lại
nào để đảm bảo người dân thuận theo những hành động
của nhà nước.
Các
quyền
cơ
bản
Mối quan hệ giữa
nhà
nước và công dân là nhân tố cơ bản của
nền dân chủ. Theo Tuyên ngôn Độc lập Mỹ của Thomas
Jefferson năm 1776:
Sự thật hiển
nhiên là mọi người sinh ra đều có quyền bình
đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền
này, các chính phủ phải do dân bầu ra, quyền
lực là quyền lực của nhân dân.
Quan trọng hơn, ở
các
nền dân chủ, các quyền cơ bản hay bất khả xâm phạm
này bao gồm quyền tự do ngôn luận và bày tỏ,
quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do hội họp
và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.
Đây không phải là một danh sách toàn
diện các quyền mà công dân được hưởng ở một
nền dân chủ, mà là một tập hợp các quyền chủ
yếu và không thể thiếu mà mỗi chính phủ
dân chủ phải tôn trọng nếu muốn xứng đáng được gọi
là chính phủ dân chủ. Do các quyền
này tồn tại độc lập với chính phủ, nên theo quan
điểm của Jefferson, chúng phải được xây dựng thành
luật và không bị chi phối bởi ý muốn nhất thời của
đa số cử tri.
Tự do
ngôn
luận, hội họp và biểu tình
Tự do ngôn
luận
và bày tỏ, đặc biệt về các vấn đề chính trị
và xã hội, là nguồn sinh khí của bất cứ nền
dân chủ nào. Các chính phủ dân chủ
không kiểm soát nội dung các phát biểu
nói hoặc viết. Do vậy, ở các nền dân chủ luôn
tồn tại những quan điểm khác nhau, những ý kiến và
ý tưởng trái ngược nhau. Các nền dân chủ
có xu hướng phức tạp.
Dân chủ phụ
thuộc
vào việc công dân cần có tri thức, hiểu biết
và việc tiếp cận thông tin cho phép họ tham gia đầy
đủ nhất có thể vào đời sống chung của xã hội
và chỉ trích các quan chức chính phủ hay
các chính sách bất hợp lý và mang
tính áp bức. Công dân và các
đại diện của họ công nhận rằng nền dân chủ phụ thuộc
vào sự tiếp cận một cách rộng rãi nhất có
thể đối với các ý tưởng, dữ liệu và quan điểm
không bị kiểm duyệt. Để người dân tự do quản lý bản
thân, họ phải được tự do bày tỏ chính kiến một
cách cởi mở, công khai và liên tục - cả
nói lẫn viết.
Bảo vệ quyền tự do
ngôn
luận là cái được gọi là "quyền phủ định", theo
đó chính phủ không được hạn chế quyền tự do
ngôn luận. Giới chức ở một nền dân chủ không can
thiệp vào nội dung phát biểu dù nói hay
viết.
Sự phản
kháng
là thước đo đối với mỗi nền dân chủ. Do vậy quyền hội họp
hòa bình là thiết yếu và là một phần
thống nhất trong việc thúc đẩy tự do ngôn luận. Xã
hội dân sự cho phép những người bất đồng về các vấn
đề được tranh luận sôi nổi. Ở nước Mỹ hiện đại, ngay cả những vấn
đề cơ bản như an ninh quốc gia, chiến tranh và hòa
bình đều được thảo luận tự do trên báo chí
và trên các phương tiện phát thanh truyền
hình. Qua đó, người những người phản đối chính
sách đối ngoại của chính quyền dễ dàng công
khai quan điểm của mình.
Tự do ngôn
luận
là một quyền cơ bản, nhưng không phải là tuyệt đối
và không thể viện dẫn để kích động bạo lực. Tội vu
khống và phỉ báng nếu được chứng minh sẽ do tòa
án xử lý. Ở các nền dân chủ, nếu muốn cấm
phát ngôn hay các buổi tụ họp được cho là
có thể kích động bạo lực, làm tổn hại danh tiếng
người khác hoặc nhằm lật đổ một chính phủ hợp hiến,
thì phải chứng minh được mức độ đe dọa lớn của những hành
động đó. Nhiều nền dân chủ cấm phát ngôn
gây phân biệt chủng tộc hoặc hiềm thù sắc tộc. Tuy
nhiên, thách thức với tất cả các nền dân chủ
là làm sao để cân bằng giữa việc bảo vệ tự do
ngôn luận và hội họp, đồng thời phải xử lý những
phát biểu thực sự kích động bạo lực, đe dọa, hoặc lật đổ
các thể chế dân chủ. Người dân có thể phản
ứng trước hành vi của một quan chức một cách công
khai và mạnh mẽ; nhưng việc kêu gọi ám sát
quan chức đó lại là phạm tội.
Tự
do
tôn
giáo
và khoan dung
Mọi công
dân phải
được tự do tín ngưỡng. Tự do tôn giáo bao gồm quyền
hành đạo một mình hoặc với những người khác, ở nơi
công cộng hoặc riêng tư, hoặc cả quyền không theo
tôn giáo nào cả và tham gia vào
các buổi lễ tôn giáo, hành đạo và
giảng dạy tôn giáo mà không sợ bị
chính phủ hoặc các nhóm khác trong
xã hội ngược đãi. Mọi người đều có quyền
hành đạo hoặc hội họp với một tôn giáo hoặc
tín ngưỡng, có quyền xây dựng và duy
trì các địa điểm dành riêng cho những hoạt
động này.
Giống với
các quyền
con người cơ bản khác, tự do tôn giáo không
phải do nhà nước tạo ra hay ban cho, nhưng nhà nước
dân chủ nào cũng phải bảo vệ quyền tự do đó. Mặc
dù nhiều nền dân chủ công nhận có sự
tách biệt chính thức giữa nhà thờ và
nhà nước, nhưng những giá trị của chính phủ
và tôn giáo không vì thế mà
xung đột căn bản. Chính phủ nào bảo vệ quyền tự do
tôn giáo cho mọi công dân thì chắc chắn
bảo vệ được các quyền khác cần thiết để có tự do
tôn giáo, chẳng hạn như quyền tự do ngôn luận
và tự do hội họp. Các thuộc địa Mỹ và hầu hết
các nhà nước chính trị thần quyền thế kỷ XVII
và XVIII, đã phát triển các thuyết về khoan
dung tôn giáo và thuyết dân chủ thế tục.
Ngược lại, một số chế độ độc tài thế kỷ XX lại nỗ lực xóa
bỏ tôn giáo, coi đó là hình thức tự
biểu hiện tín ngưỡng của cá nhân, giống với
ngôn luận chính trị. Các nền dân chủ thực sự
nhận thức rằng những khác biệt về tôn giáo của mỗi
cá nhân phải được tôn trọng và vai trò
chủ chốt của chính phủ là bảo vệ lựa chọn tôn
giáo, ngay cả trong những trường hợp nhà nước cấm một
tín ngưỡng tôn giáo cụ thể. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là bản thân
tôn giáo có thể là cái cớ để biện
minh cho bạo lực chống lại các tôn giáo khác
hoặc chống lại cả xã hội. Tôn giáo được thực thi
trong bối cảnh một xã hội dân chủ nhưng không thể
vượt lên trên xã hội.
Trách
nhiệm
của
công dân
Tư cách
công
dân trong một nền dân chủ đòi hỏi sự tham gia,
phép lịch sự và sự kiên nhẫn, tức là
đòi hỏi cả quyền lẫn trách nhiệm. Nhà khoa học
chính trị Benjamin Barber đã khẳng định: “Dân chủ
thường được hiểu là nguyên tắc đa số và các
quyền ngày càng được hiểu là sự sở hữu tư
nhân của mỗi cá nhân… Nhưng như thế là
đã hiểu sai về cả các quyền và về dân chủ”.
Để một nền dân chủ thành công, công dân
phải chủ động, chứ không bị động, bởi vì họ biết rằng sự
thành công hay thất bại của chính phủ là
trách nhiệm của họ chứ không phải của ai khác.
Tất nhiên
là
cá nhân thực hiện các quyền cơ bản như tự do
ngôn luận, hội họp và tự do tôn giáo. Nhưng
mặt khác, các quyền - cũng giống như các cá
nhân - không tự hoạt động một cách biệt lập.
Các quyền được thực hiện trong khuôn khổ xã hội,
chính vì vậy mà quyền và nghĩa vụ
luôn đi liền với nhau.
Chính phủ
dân
chủ - do dân bầu ra và có trách nhiệm trước
nhân dân - bảo vệ các quyền cá nhân, từ
đó công dân trong một nền dân chủ có
thể thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân của mình, góp phần củng cố xã hội.
Ít nhất
thì
công dân cũng phải tự nhận thức về những vấn đề quan trọng
mà xã hội đang phải đối mặt. Chỉ có vậy họ mới
có thể biểu quyết một cách sáng suốt. Một số nghĩa
vụ như tham gia vào bồi thẩm đoàn tại các
tòa án dân sự, hình sự hoặc tòa
án quân đội, có thể do luật pháp quy định,
nhưng cũng có thể là tự nguyện.
Bản chất của
hành động
dân chủ là sự tham gia của công dân vào
đời sống chính trị của cộng đồng và đất nước họ một
cách tự do, chủ động và hòa bình. Theo học
giả Diane Ravitch, “Dân chủ là một tiến trình,
là cách sống và làm việc. Dân chủ
tiến hóa, chứ không phải bất biến. Dân chủ
đòi hỏi công dân phải hợp tác, thỏa hiệp
và khoan dung. Làm sao để dân chủ vận hành
là công việc không hề dễ dàng. Tự do
có nghĩa là trách nhiệm, không phải
không có trách nhiệm”. Thực thi trách nhiệm
này nghĩa là can dự tích cực vào các
tổ chức hoặc theo đuổi những mục tiêu cụ thể của cộng đồng.
Trên tất cả, thực thi trách nhiệm trong một nền dân
chủ liên quan đến một quan điểm nhất định, tức là sẵn
sàng tin rằng những người khác cũng có quyền giống
như bạn.
BẦU CỬ
DÂN CHỦ
Các cuộc bầu cử
tự do
và công bằng là yếu tố cơ bản đảm bảo sự đồng thuận
của nhân dân, là trụ cột của nền chính trị
dân chủ. Các cuộc bầu cử là cơ chế chủ yếu để
chuyển hóa sự đồng thuận đó thành quyền lực của
chính phủ.
Những
thành tố của bầu cử dân chủ
Jeane Kirkpatrick từng
là học giả và cựu đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc
đã đưa ra định nghĩa như sau: “Bầu cử dân chủ không
chỉ đơn thuần là hình thức… Chúng là những
cuộc bầu cử cạnh tranh, theo định kỳ, với thành phần tham gia mở
và mang tính quyết định, qua đó các
nhà hoạch định chính sách của một chính phủ
được nhân dân bầu lên. Nhân dân có
quyền tự do chỉ trích chính phủ, công khai
phê phán và đề xuất các chính
sách thay thế.
Bầu cử dân chủ
mang
tính cạnh tranh. Các đảng phái chính trị
và các ứng cử viên đối lập phải có quyền tự
do ngôn luận, tự do hội họp và đi lại để công khai
chỉ trích chính phủ và đưa ra trước cử tri
các chính sách và các ứng cử
viên thay thế. Nếu chỉ cho phép phe đối lập tiếp cận
lá phiếu thì chưa đủ. Đảng cầm quyền có thể
có lợi thế vì đang nắm quyền, nhưng các
nguyên tắc và thủ tục tranh cử phải công bằng. Mặt
khác, quyền tự do hội họp dành cho các đảng đối
lập không ám chỉ tình trạng lộn xộn hay bạo lực.
Đó là tranh luận.
Các cuộc bầu cử
dân chủ diễn ra định kỳ. Các nền dân chủ không
bầu lên các nhà độc tài hay các tổng
thống suốt đời. Các quan chức được bầu lên phải có
trách nhiệm trước nhân dân. Nếu muốn tiếp tục được
ủy nhiệm nắm quyền, họ phải quay trở lại với cử tri tại các cuộc
bầu cử giữa kỳ và phải đối diện với khả năng không được
bầu.
Các cuộc bầu cử
dân chủ có tính mở. Khái niệm tư cách
công dân và cử tri phải đủ rộng để bao gồm tất cả
dân chúng trưởng thành. Một chính phủ được
bầu lên bởi một nhóm nhỏ, không nhiều thành
phần tham gia, thì không phải là một nền dân
chủ - dù công việc trong nước vận hành dân
chủ đến mức nào đi nữa. Một trong những đặc điểm quan trọng của
dân chủ trong lịch sử là cuộc đấu tranh của các
nhóm bị đẩy ra ngoài lề - các nhóm sắc tộc,
chủng tộc hoặc các nhóm tôn giáo thiểu số,
phụ nữ - nhằm giành quyền công dân đầy đủ và
cùng với đó là quyền được bầu cử, nắm giữ
các chức vụ và tham gia đầy đủ vào đời sống
xã hội.
Các cuộc bầu cử
có tính quyết định. Chúng quyết định giới
lãnh đạo của chính phủ trong một thời gian nhất định.
Những quan chức được bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu nắm
giữ quyền lực, chứ không đơn thuần chỉ là các
nhà lãnh đạo bù nhìn.
Các nền
dân chủ,
phát triển dựa trên sự cởi mở và tính
trách nhiệm, với một ngoại lệ quan trọng nhất: bản than việc bầu
cử. Để hạn chế tối đa khả năng bị trả thù, các cử tri ở
một nền dân chủ phải được bỏ phiếu kín. Đồng thời, việc
bảo vệ thùng phiếu và kiểm phiếu phải được tiến
hành công khai nhất có thể, để công dân
tin tưởng rằng kết quả là chính xác và
chính phủ thực sự đã dựa vào “sự đồng thuận” của
họ.
Tôn
trọng
đối thủ
Một trong những
khái
niệm khó chấp nhận nhất đối với một số người, đặc biệt là
ở những quốc gia mà việc chuyển giao quyền lực thường diễn ra
bằng bạo lực, đó là “chấp nhận đối thủ”. Tuy nhiên,
đây là một ý tưởng quan trọng. Nó có
nghĩa là về cơ bản tất cả các bên trong một nền
dân chủ đều có chung cam kết đối với những giá trị
cơ bản. Các đối thủ chính trị không nhất thiết phải
thích người khác, nhưng họ phải có thái độ
khoan dung với họ và thừa nhận rằng mỗi người đều có một
vai trò quan trọng và hợp pháp. Hơn thế nữa,
các nguyên tắc cơ bản của xã hội phải khuyến
khích sự khoan dung và phép lịch sự trong
các cuộc tranh luận công khai.
Khi các cuộc bầu
cử
đã xong, người thua phải chấp nhận quyết định của cử tri. Nếu
đảng cầm quyền thất bại, đảng đó phải chuyển giao quyền lực
hòa bình. Bất chấp người thắng là ai, cả hai
bên phải nhất trí hợp tác trong việc giải quyết
những vấn đề chung của xã hội. Phe đối lập tiếp tục tham gia
vào đời sống chung với sự thừa nhận rằng họ đóng vai
trò quan trọng ở bất cứ nền dân chủ nào. Phe đối
lập không phải trung thành với những chính
sách cụ thể của chính phủ mà là trung
thành với tính hợp pháp cơ bản của nhà nước
và tiến trình dân chủ.
Rốt cuộc thì
các cuộc bầu cử dân chủ không phải là một
cuộc đấu tranh sinh tồn mà là một cuộc cạnh tranh để phục
vụ.
Quản
lý
bầu cử
Ở mỗi nền dân
chủ,
cách thức các quan chức được bầu lên rất
khác nhau. Ví dụ, ở cấp độ quốc gia, các nghị sĩ
có thể do các các khu vực bầu cử bầu ra - trong
đó mỗi khu vực bầu một đại diện. Quy định này được gọi
là hệ thống bầu cử “người thắng được tất”. Một cách
khác, theo hệ thống tỷ lệ đại diện, số đại diện của mỗi đảng ở
cơ quan lập pháp tính theo tổng phiếu bầu trên
toàn quốc. Các cuộc bầu cử cấp tỉnh và địa phương
có thể theo mô hình ở cấp quốc gia này.
Dù theo hệ thống
nào đi nữa, các tiến trình bầu cử phải được
đánh giá là công bằng và cởi mở để
kết quả bầu cử được công nhận là hợp pháp.
Các quan chức phải đảm bảo quyền tự do rộng mở cho người tham
gia đăng ký cử tri hoặc chạy đua vào một chức vụ; điều
hành hệ thống công bằng nhằm đảm bảo việc bỏ phiếu
kín nhưng kiểm phiếu mở, công khai; ngăn chặn gian lận
phiếu bầu và nếu cần thiết kiểm lại phiếu và giải quyết
tranh chấp bầu cử.
PHÁP
QUYỀN
Trong
phần
lớn lịch sử nhân loại, luật pháp đơn giản là
ý chí của tầng lớp cai trị. Ngược lại, các nền
dân chủ đã định ra nguyên tắc pháp trị đối
với cả kẻ cai trị lẫn người bị trị.
Bình
đẳng
trước
pháp luật
Pháp
quyền
bảo
vệ các quyền kinh tế, chính trị và
xã hội cơ bản, đồng thời bảo vệ nhân dân trước mối
đe dọa của chế độ chuyên chế và tình trạng
không luật pháp. Pháp quyền có nghĩa
là không một cá nhân nào, cả tổng
thống lẫn người dân, được đứng trên luật pháp.
Các chính phủ dân chủ sử dụng quyền lực theo
pháp quyền và bản thân họ chịu những giới hạn
mà luật pháp quy định.
Công
dân
sống
ở các nền dân chủ sẵn sàng
tuân theo luật pháp của xã hội bởi vì họ
đang tuân thủ chính những nguyên tắc và quy
định của bản thân. Công lý được thực hiện tốt nhất
khi luật pháp được người dân xây dựng nên
và chính họ phải tuân theo luật pháp
đó. Dù giàu hay nghèo, dù là
người thuộc phe đa số hay phe thiểu số, dù là đồng minh
chính trị của nhà nước hay là những người đối lập
hòa bình, tất cả đều phải tuân thủ luật pháp.
Công
dân
của
một nền dân chủ tuân thủ luật pháp bởi
vì họ nhận thức rằng, mặc dù gián tiếp, nhưng họ
đang tuân theo chính họ với tư cách là những
người làm luật. Khi luật pháp do nhân dân
xây dựng nên và sau đó bản thân họ phải
tuân theo luật pháp đó, thì cả luật lẫn nền
dân chủ đều được phục vụ.
Tiến
trình
xét
xử đúng luật
Ở mọi
xã hội trong lịch sử, những người điều hành hệ thống tư
pháp nắm giữ quyền lực có khả năng lạm dụng quyền lực
và trở nên chuyên quyền. Dưới danh nghĩa nhà
nước, các cá nhân bị bỏ tù, bị tịch thu
tài sản, bị tra tấn, trục xuất và hành quyết nhưng
không được chứng minh là có tội và thường
không bị buộc tội danh chính thức nào cả.
Không một xã hội dân chủ nào cho phép
xảy ra tình trạng lạm dụng như vậy.
Các
nhà
nước
phải có quyền lực để duy trì trật tự
và trừng phạt những hành vi phạm tội, nhưng thủ tục tố
tục theo đó nhà nước thực thi luật phải công khai
và rõ rang - không được xử kín, tùy
tiện hoặc bị chính trị hóa - và phải được
áp dụng như nhau đối với tất cả mọi người. Đó
chính là quy trình xét xử đúng luật.
Để
thực
hiện tiến trình xét xử đúng luật, dưới đây
là các nguyên tắc đã phát triển ở
các nền dân chủ theo hợp hiến
- Cảnh
sát
không
được vào nhà dân lục
soát nếu không có lệnh của tòa án cho
thấy có lý do chính đáng để tiến
hành lục soát. Ở một nền dân chủ không
có việc cảnh sát mật được gõ cửa các gia
đình vào lúc nửa đêm.
- Không
ai
bị
giam giữ nếu không có những cáo buộc
rõ ràng, bằng văn bản nêu rõ vi phạm. Hơn
thế nữa, theo quy định về lệnh đình quyền giam giữ, tất cả những
ai bị bắt đều có quyền được đưa ra tòa xử và phải
được thả nếu tòa thấy việc bắt giữ là không
có cơ sở.
- Trước
khi
xét
xử, không được giam giữ những người bị cáo
buộc tội lâu trong tù. Họ có quyền được xét
xử công khai, nhanh chóng và đối chất với
nguyên đơn.
- Các
nhà
chức
trách phải cho bảo lãnh hoặc thả
có điều kiện bị cáo đang chờ xét xử nếu thấy nghi
phạm khó có thể trốn chạy hoặc vi phạm các tội
khác.
- Người
dân
không
bị ép buộc làm chứng chống lại bản
thân. Quy định nhằm ngăn chặn tình trạng tự phân
biệt đối xử miễn cưỡng này phải là quy định dứt
khoát. Do vậy, trong bất cứ hoàn cảnh nào cảnh
sát cũng không được tra tấn hoặc xâm phạm về thể
chất lẫn tâm lý đối với nghi phạm.
- Người
dân
không
bị kết án hai lần, có nghĩa
là không thể bị cáo buộc hai lần cùng một
tội danh nếu họ đã thụ án tại một tòa án.
- Do
có khả năng bị các nhà chức trách lạm dụng
nên cái gọi là luật hồi tố cũng được xây
dựng. Đây là những điều luật đưa ra sau khi xảy ra sự
việc, tức là một người vẫn có thể bị cáo buộc tội
danh ngay cả khi hành vi của anh ta ở thời điểm xảy ra chưa được
quy định là phạm tội.
- Cấm
các hình thức trừng phạt dã man hoặc bất
bình thường.
Không
quy
định
nào trong số những quy định này có nghĩa
là nhà nước thiếu quyền lực cần thiết để thực thi luật
và trừng phạt người vi phạm. Trái lại, hệ thống tư
pháp ở một nền dân chủ sẽ hiệu quả nếu việc điều
hành hệ thống đó được nhân dân đánh
giá là công bằng và bảo vệ được an
toàn cá nhân, cũng như phục vụ lợi ích
công cộng.
CHỦ
NGHĨA
HỢP
HIẾN
Hiến
pháp - văn kiện khẳng định những nghĩa vụ cơ bản của
chính phủ và những hạn chế đối với quyền lực của
nhà nước - là một thiết chế quan trọng đối với bất cứ nền
dân chủ nào.
Các
hiến
pháp:
Siêu luật
Hiến
pháp quy định những mục đích và khát vọng
cơ bản của một xã hội vì lợi ích chung của người
dân. Mọi công dân, kể cả các lãnh đạo
nhà nước, phải tuân thủ hiến pháp quốc gia. Hiến
pháp là bộ luật cao nhất của quốc gia.
Hiến
pháp - thường được pháp điển hóa thành một
văn kiện riêng biệt - quy định quyền lực của chính phủ
quốc gia, quy định bảo vệ các quyền con người cơ bản và
quy định trình tự hoạt động cơ bản của chính phủ.
Các hiến pháp thường được dựa trên những thực tiễn
và tiền lệ chưa được pháp điển hóa trước đó
nhưng đã được chấp nhận rộng rãi. Ví dụ, Hiến
pháp Mỹ được dựa trên những khái niệm xuất
phát từ thông luật của Anh, cũng như nỗ lực của các
triết gia thế kỷ XVIII nhằm định nghĩa các quyền con người.
Chủ
nghĩa
hợp hiến công nhận rằng chính phủ dân chủ và
có trách nhiệm phải chịu những giới hạn rõ
ràng. Bởi vậy, mọi bộ luật phải được soạn thảo phù hợp
với hiến pháp. Ở một nền dân chủ, cơ quan tư pháp
độc lập về chính trị cho phép công dân
có quyền đòi thay đổi những bộ luật mà họ cho
là không hợp hiến và yêu cầu tòa
án ra phán quyết đối với những hành vi bất hợp
pháp của chính phủ hoặc của các quan chức
chính phủ.
Dù
bản
chất
hiến pháp là lâu dài và
có ý nghĩa rất lớn, nhưng vẫn phải có khả năng
thay đổi và thích nghi nếu chúng không muốn
trở thành thứ đồ cổ chỉ để ngắm mà thôi. Hiến
pháp lâu đời nhất trên thế giới - Hiến pháp
Mỹ - bao gồm 7 điều khoản ngắn gọn và 27 điều sửa đổi bổ sung.
10 điều sửa đổi bổ sung đầu tiên của Hiến pháp Mỹ được gọi
là Tuyên ngôn Nhân quyền. Tuy nhiên, văn
kiện này cũng là nền tảng của cấu trúc mang
tính “hiến pháp” rộng lớn gồm các quyết định
pháp lý, bộ luật, hành động của tổng thống
và những thông lệ đã được phát triển trong
200 năm qua, góp phần giữ cho Hiến pháp Mỹ phù hợp
đến hôm nay.
Nhìn
chung,
có
hai trường phái liên quan đến tiến
trình sửa đổi, hoặc thay đổi hiến pháp của một quốc gia.
Một trường phái cho rằng tốt nhất là đưa ra một quy
trình khó khăn, yêu cầu phải qua nhiều bước
và phải có sự chấp thuận của đa số lớn nếu muốn sửa đổi.
Như vậy, hiến pháp sẽ thay đổi không thường xuyên
và chỉ khi nào có những lý do thật bức
xúc thì việc thay đổi hiến pháp mới nhận được sự
ủng hộ lớn của dân chúng. Đó là trường
phái Mỹ.
Phương
pháp thay đổi hiến pháp đơn giản hơn, mà nhiều
nước sử dụng là quy định rằng bất cứ điều sửa đổi nào đều
có thể đưa ra để quốc hội chấp thuận và sau đó cử
tri thông qua tại cuộc bầu cử tiếp theo. Những hiến pháp
được sửa đổi theo kiểu này có thể sẽ rất dài.
Chủ
nghĩa
liên
bang: Phân tán quyền lực
Khi
người
dân tự do chọn sống theo một khuôn khổ hiến pháp
được nhất trí, khuôn khổ đó có thể được thực
hiện theo nhiều cách khác nhau. Một số nền dân chủ
có các cơ quan quản lý đơn nhất. Những nền
dân chủ khác theo hệ thống chính phủ liên
bang - tức là quyền lực được chia sẻ ở cấp độ địa phương, khu
vực và quốc gia.
Ví
dụ,
Mỹ
là một nền cộng hòa liên bang trong
đó các bang có vị trí pháp lý
của riêng họ và quyền lực độc lập với chính phủ
liên bang. Không giống với sự phân chia chính
trị ở các quốc gia như Anh và Pháp - những nước
có cấu trúc chính trị đơn nhất - ở Mỹ chính
quyền liên bang không có quyền xóa bỏ hay
thay đổi các bang. Ở Mỹ, mặc dù quyền lực ở cấp
liên bang ngày càng gia tăng đáng kể, nhưng
các bang vẫn có những trách nhiệm quan trọng trong
những lĩnh vực như giáo dục, y tế, giao thông và
thực thi luật. Đổi lại, các bang ngày càng đi theo
mô hình liên bang khi trao bớt chức năng cho cộng
đồng địa phương, chẳng hạn như quản lý các trường học
và cảnh sát.
Sự
phân chia quyền lực trong hệ thống liên bang không
bao giờ là rõ ràng. Các cơ quan liên
bang, bang và địa phương, tất cả đều có các chương
trình nghị sự chồng chéo nhau và thậm chí
là xung đột trong những lĩnh vực như giáo dục và
luật hình sự. Tuy nhiên, hình thức liên bang
có thể tối đa hóa cơ hội tham gia của người dân -
nhân tố vô cùng quan trọng đối với sự vận
hành của xã hội dân chủ. Người Mỹ cho rằng cấu
trúc liên bang của họ bảo vệ được quyền tự trị của
cá nhân.
BA
TRỤ
CỘT
CỦA CHÍNH
PHỦ
Như
đã trình bày, thông qua các cuộc bầu
cử tự do, công dân của một nền dân chủ chuyển giao
quyền lực cho các nhà lãnh đạo của họ theo quy
định của luật pháp. Trong một nền dân chủ hợp hiến, quyền
lực của chính phủ được phân chia để nhánh lập
pháp ban hành luật, nhánh hành pháp
thi hành luật và nhánh tư pháp hoạt động
độc lập ngang với hai nhánh trên. Những quy định
này đôi khi được gọi là “chia sẻ quyền lực”. Tuy
nhiên trên thực tế, sự phân chia đó hiếm khi
rõ ràng và ở hầu hết các nhà nước
dân chủ hiện đại, những quyền này vẫn bị chồng chéo
và được chia sẻ như chúng đã được tách ra.
Các cơ quan lập pháp có thể muốn quản lý
các chương trình bằng những quy định chi tiết; các
cơ quan hành pháp thường xuyên tham gia vào
hoạt động làm luật chi tiết; cả các nghị sĩ lẫn
các quan chức chính phủ đều tiến hành điều trần
theo kiểu tư pháp về hàng loạt vấn đề.
Hành
pháp
Ở
các nền dân chủ hợp hiến, quyền hành pháp
nhìn chung bị giới hạn ở ba phương diện: (i) Sự phân chia
quyền lực giữa ngành hành pháp, lập pháp
và tư pháp như đã trình bày ở
trên trong đó ngành lập pháp và tư
pháp có thể kiểm soát quyền lực của ngành
hành pháp; (ii) Các quy định của hiến pháp
về việc bảo vệ các quyền cơ bản và (iii) Các cuộc
bầu cử theo định kỳ.
Những
người chuyên quyền và những người chỉ trích
khác đều hiểu sai khi cho rằng các nền dân chủ
thiếu quyền lực để trấn áp, đồng thời cũng thiếu quyền lực để
cai trị. Quan điểm này hoàn toàn sai lạc:
Các nền dân chủ đòi phải giới hạn quyền lực của
chính phủ, chứ không phải họ yếu kém.
Quyền
hành pháp ở các nền dân chủ hiện đại
nhìn chung được tổ chức theo một trong hai cách sau: hệ
thống nghị viện hoặc tổng thống.
Trong
hệ
thống nghị viện, đảng đa số (hoặc liên minh các đảng sẵn
sàng cùng nhau nắm quyền) trong cơ quan lập pháp
sẽ thành lập chính phủ, đứng đầu là một thủ tướng.
Ngành lập pháp và hành pháp
không hoàn toàn khác biệt với nhau trong hệ
thống nghị viện, do thủ tướng và các thành
viên nội các đều là người của quốc hội; dù
vậy nhưng thủ tướng là nguyên thủ quốc gia.
Ngược
lại,
trong hệ thống tổng thống, tổng thống thường được bầu lên
riêng rẽ từ các thành viên của cơ quan lập
pháp. Cả tổng thống lẫn cơ quan lập pháp đều có cơ
sở quyền lực và các khu vực cử tri riêng,
chúng kiểm soát và cân bằng lẫn nhau.
Mỗi hệ
thống đều có những điểm mạnh, điểm yếu về thể chế.
Đặc
trưng
cơ bản của hệ thống nghị viện mà cho đến nay tạo nên đa số
các nền dân chủ chính là khả năng ứng
phó và linh hoạt của chúng. Các
chính phủ trong hệ thống nghị viện, đặc biệt là nếu được
bầu lên thông qua tỉ lệ đại diện, có xu hướng
hình thành các hệ thống đa đảng, trong đó
ngay cả những đảng nhỏ cũng có đại diện tại cơ quan lập
pháp. Do vậy, các nhóm thiểu số vẫn có thể
tham gia vào tiến trình chính trị ở cấp cao nhất
của chính phủ. Nếu như liên minh cầm quyền sụp đổ hoặc
đảng mạnh nhất thất bại, thủ tướng từ chức và một chính
phủ mới sẽ được hình thành hoặc các cuộc bầu cử
mới sẽ diễn ra - tất cả điều diễn ra trong khoảng thời gian ngắn.
Điểm
yếu
cơ bản đối với hệ thống nghị viện chính là mặt
trái của sự linh hoạt và chia sẻ quyền lực, đó
là tính bất ổn định. Các liên minh đa đảng
có thể lỏng lẻo và sụp đổ ngay khi nổ ra khủng hoảng
chính trị, khiến cho các chính phủ cầm quyền chỉ
tồn tại trong thời gian ngắn và không có khả năng
giải quyết các vấn đề chính trị khó khăn.
Nói cách khác, các hệ thống nghị viện
khác sẽ ổn định nhờ có các đảng chiếm đa số mạnh.
Đối
với hệ
thống tổng thống, điểm mạnh chủ yếu là trách nhiệm trực
tiếp, tính liên tục và sức mạnh. Các tổng
thống - được dân bầu lên trong một nhiệm kỳ cố định -
có thể khẳng định quyền lực từ các cuộc bầu cử trực tiếp,
bất chấp vị thế của đảng họ tại quốc hội. Bằng việc xây dựng
các nhánh chính quyền riêng rẽ và
bình đẳng về mặt lý thuyết, hệ thống tổng thống muốn
xây dựng các thể chế hành pháp và lập
pháp mạnh, mỗi thể chế đều được nhân dân uỷ quyền
và có khả năng kiểm soát và cân bằng
lẫn nhau.
Điểm
yếu
của các tổng thống và cơ quan lập pháp được bầu
lên riêng rẽ là khả năng dẫn đến bế tắc. Các
tổng thống có thể không lôi kéo đủ đồng minh
chính trị trong cơ quan lập pháp để bỏ phiếu thông
qua các chính sách mà họ muốn. Tuy
nhiên, với việc sử dụng quyền phủ quyết (trong các trường
hợp nhất định đây là quyền được bác bỏ các
luật do quốc hội thông qua), tổng thống có thể ngăn
không cho cơ quan lập pháp ban hành các
chương trình làm luật riêng của họ. Nhà khoa
học chính trị Richard Neustadt đã mô tả quyền lực
của tổng thống Mỹ là “không phải quyền ra lệnh, mà
là quyền thuyết phục”. Neustadt muốn nói rằng tổng thống
Mỹ nào muốn Quốc hội ban hành chương trình nghị sự
pháp luật mà được tổng thống ưa thích - hoặc
ít nhất là tránh ban hành những luật
mà tổng thống không nhất trí vì được
các đối thủ chính trị thông qua - đều phải
có được sự ủng hộ chính trị của dân chúng
và có khả năng lôi kéo liên minh hiệu
quả tại Quốc hội.
Lập
pháp
Các
cơ
quan
lập pháp được bầu lên - dù là theo
hệ thống nghị viện hay tổng thống - đều là diễn đàn chủ
yếu để soạn thảo, tranh luận và thông qua luật trong một
nền dân chủ đại diện. Những cơ quan này không phải
là cái gọi là những quốc hội bù
nhìn, chỉ có việc thông qua những quyết định của
một lãnh đạo chuyên quyền.
Các
nghị
sĩ
có thể chất vấn các quan chức chính phủ về
những hành động và quyết định của họ, phê chuẩn
ngân sách quốc gia và thông qua thành
viên chính phủ bổ nhiệm vào tòa án
và các bộ. Ở một số nền dân chủ, các ủy ban
lập pháp là diễn đàn cho các nhà
làm luật công khai xem xét các vấn đề quốc
gia. Các nghị sĩ có thể ủng hộ chính phủ đang nắm
quyền hoặc họ có thể là lực lượng chính trị đối
lập đề xuất những chính sách hoặc các chương
trình thay thế.
Các
nghị
sĩ
có trách nhiệm giải thích quan điểm của họ
một cách hiệu quả nhất có thể. Tuy nhiên, họ phải
làm việc trong khuôn khổ đạo đức dân chủ với sự
khoan dung, tôn trọng và thỏa hiệp để có được sự
nhất trí có lợi vì lợi ích chung của người
dân, chứ không chỉ vì những người ủng hộ họ về mặt
chính trị. Mỗi nghị sĩ phải tự mình quyết định
cách cân bằng giữa lợi ích chung và nhu cầu
của bộ phận cử tri địa phương.
Do
thiếu
đặc điểm phân chia quyền lực của hệ thống tổng thống, nên
hệ thống nghị viện phải dựa nhiều hơn vào động lực chính
trị bên trong của hệ thống này để kiểm soát
và cân bằng quyền lực của chính phủ. Những động lực
này thường là phe đối lập được tổ chức riêng rẽ
“bao vây” chính phủ hoặc cạnh tranh giữa các đảng
đối lập.
Ngành
tư
pháp
độc lập
Các
thẩm
phán
có chuyên môn và độc lập
là nền tảng của một hệ thống tòa án công
bằng, vô tư và được hiến pháp bảo vệ. Sự độc lập
này không có nghĩa là các thẩm
phán có thể đưa ra những quyết định dựa trên
ý muốn cá nhân họ. Họ phải được tự do đưa ra
các quyết định pháp lý - ngay cả khi những quyết
định đó mâu thuẫn với chính phủ hoặc các
đảng có quyền lực khác có liên quan tới vụ
việc.
Ở
các nền dân chủ, cấu trúc hiến pháp mang
tính bảo vệ và uy tín của ngành tư
pháp bảo đảm sự độc lập trước áp lực chính trị. Do
vậy, các phán quyết của ngành tư pháp mới
vô tư, dựa trên thực tiễn vụ việc, các lập luận
pháp lý và các luật liên quan,
không bị chính phủ hoặc cơ quan lập pháp áp
đặt hạn chế hoặc gây áp lực. Những nguyên tắc
này đảm bảo mọi người đều được bảo vệ bình đẳng trước
pháp luật.
Quyền
của
các thẩm phán được xem xét lại các bộ luật
và tuyên bố các luật đó vi phạm hiến
pháp là hình thức kiểm soát cơ bản khả năng
chính phủ lạm dụng quyền lực - ngay cả khi chính phủ
đó được bầu lên bằng đa số. Tuy nhiên, quyền
này đòi hỏi các tòa án phải được
nhìn nhận là độc lập và phi đảng phái
và có khả năng đưa ra quyết định dựa trên luật
pháp chứ không phải các tính toán
chính trị.
Dù
được
bầu
lên hay được chỉ định, các thẩm phán đều
phải được an toàn trong nghề nghiệp hoặc nhiệm kỳ theo quy định
của luật pháp, để họ có thể đưa ra những quyết định
mà không phải lo ngại những người có quyền lực
gây áp lực hoặc tấn công. Để đảm bảo sự vô tư,
không thiên vị của họ, đạo đức tư pháp đòi
hỏi các thẩm phán phải đứng bên ngoài (hoặc
náu mình) không được ra quyết định trong các
vụ việc mà họ có xung đột lợi ích cá
nhân. Tin tưởng vào sự vô tư, không
thiên vị của hệ thống tòa án - tin tưởng vào
việc nó được đánh giá là một nhánh
chính quyền “phi chính trị” - là nhân tố cơ
bản quyết định sức mạnh và tính hợp pháp của
ngành tư pháp.
Thẩm
phán ở một nền dân chủ không thể bị bãi nhiệm
vì những khiếu nại nhỏ nhặt, hoặc chỉ là đáp ứng
sự chỉ trích chính trị. Thay vào đó, họ chỉ
có thể bị bãi nhiệm nếu vi phạm những tội ác
nghiêm trọng hoặc vi phạm luật thông qua thủ tục luận tội
và xét xử kéo dài và nhiều bước (để
đưa ra các cáo buộc) tại cơ quan lập pháp hoặc
trước một hội đồng tòa án riêng rẽ.
GIỚI
TRUYỀN
THÔNG
ĐỘC
LẬP VÀ TỰ DO
Khi
các xã hội hiện đại phát triển cả về quy mô
lẫn tính phức tạp, lĩnh vực thông tin, liên lạc
và tranh luận công khai ngày càng bị
các phương tiện truyền thông đã chi phối, trong
đó có phát thanh, truyền hình, báo,
tạp chí, đặc biệt là những phương tiện truyền thông
mới như Internet và truyền hình vệ tinh.
Dù
là
nhật
ký điện tử hay sách in thì trong
xã hội dân chủ chức năng của truyền thông vẫn
có sự chồng chéo, nhưng những chức năng riêng vốn
có của nó về cơ bản vẫn giữ nguyên, đó
là tính thông tin và tính giáo
dục. Để đưa ra những quyết sách đúng đắn về chính
sách công, người ta cần thông tin chính
xác, kịp thời và công bằng. Tuy nhiên, một
chức năng khác nữa của truyền thông là cổ
xúy, ngay cả khi tỏ ra thiếu khách quan. Khán giả
của các phương tiện truyền thông có thể tiếp cận
những ý kiến khác nhau, thậm chí xung đột nhau, từ
đó nắm bắt nhiều loại quan điểm khác nhau. Vai trò
này của truyền thông đặc biệt quan trọng trong các
chiến dịch vận động tranh cử, vì rất ít cử tri chỉ
có cơ hội nhìn thấy các ứng cử viên,
nói gì đến việc trò chuyện với họ.
Chức
năng
thứ hai của truyền thông là giám sát hoạt
động của Chính phủ và các thể chế quyền lực trong
xã hội. Nhờ có sự khách quan và độc lập -
mặc dù chưa hoàn hảo - truyền thông đã
giúp phơi bày sự thật đằng sau những tuyên bố của
chính phủ và buộc các quan chức chính phủ
phải có trách nhiệm về những hành động của họ.
Truyền
thông cũng có thể đóng một vai trò
tích cực hơn trong cuộc tranh luận công khai thông
qua các bài xã luận hoặc báo cáo
điều tra. Đồng thời, nó là một diễn đàn để
các cá nhân và các nhóm
bày tỏ quan điểm qua thư và bài viết và
những thông tin đưa lên mạng, với rất nhiều quan điểm
khác nhau.
Các
nhà
bình
luận còn chỉ ra một vai trò
ngày càng quan trọng nữa của truyền thông là
“xây dựng chương trình nghị sự”. Do không thể
thông tin về tất cả, nên các phương tiện truyền
thông phải chọn vấn đề nào cần nhấn mạnh và vấn đề
nào nên bỏ qua. Tóm lại, họ có xu hướng phải
quyết định cái gì là tin tức và cái
gì không. Đổi lại, những quyết định này sẽ ảnh
hưởng đến nhận thức của công chúng về vấn đề quan trọng
nhất. Tuy nhiên, không giống với các nước mà
ở đó truyền thông bị chính phủ quản lý,
truyền thông ở một nền dân chủ không thể đơn giản cứ
theo ý muốn mà xuyên tạc hay làm ngơ trước
các vấn đề. Vì rút cục thì các đối
thủ cạnh tranh được tự do kêu gọi sự quan tâm, chú
ý đối với danh sách những vấn đề quan trọng của họ.
Công
dân
ở
một nền dân chủ tin tưởng rằng với sự trao đổi cởi mở
các ý tưởng và quan điểm, cuối cùng sự thật
sẽ chiến thắng, giá trị của những người khác sẽ được hiểu
rõ hơn, những lĩnh vực thỏa hiệp sẽ được xác định
rõ hơn và con đường tiến bộ sẽ mở ra. Mức độ trao đổi
càng lớn càng tốt. Nhà văn E.B. White nhận
xét: “Giới báo chí ở đất nước tự do của
chúng ta là đáng tin cậy và hữu ích
không phải bởi đặc điểm tốt của nó mà bởi
chính tính đa dạng của nó. Chừng nào
còn nhiều người sở hữu các phương tiện truyền
thông, mà mỗi người đều theo đuổi lĩnh vực tìm kiếm
sự thật riêng của mình, khi đó chúng ta
còn cơ hội đến với sự thật và sống trong sự thật…
đông người thì không sợ gì cả”.
CÁC ĐẢNG PHÁI
CHÍNH TRỊ, NHÓM LỢI ÍCH, TỔ CHỨC PHI CHÍNH
PHỦ
Không
thể yêu cầu công dân tham gia vào tiến
trình chính trị, nhưng nếu không có
hành động của công dân, nền dân chủ sẽ bị suy
yếu. Công dân có quyền tự do hội họp và
thành lập những tổ chức của riêng mình nếu thấy
phù hợp. Đó là nhân tố cơ bản của dân
chủ.
Các
đảng
phái
chính trị
Các
đảng phái chính trị thu nạp, chỉ định và vận động
tranh cử để bầu lên các quan chức; xây dựng
các đường lối chính sách cho chính phủ nếu
họ là đảng nắm đa số; chỉ trích hoặc đề xuất các
chính sách thay thế nếu họ là đảng đối lập; huy
động các nhóm lợi ích ủng hộ các
chính sách chung; giải thích cho công
chúng về những vấn đề công; xây dựng cơ cấu
và nguyên tắc tiến hành tranh luận chính trị
trong xã hội. Trong một số hệ thống chính trị, ý
thức hệ có thể là một nhân tố quan trọng trong việc
thu nạp và khuyến khích các thành
viên trong đảng. Ở các hệ thống chính trị
khác, lợi ích kinh tế hoặc tình hình
xã hội có thể quan trọng hơn cam kết về ý thức hệ.
Các
tổ chức đảng và những thủ tục hoạt động trong các đảng
phái rất khác nhau. Ở một góc độ, hệ thống nghị
viện đa đảng là tổ chức được quy định chặt chẽ nhất, hoàn
toàn do các nhà chuyên môn điều
hành. Ở góc độ khác là nước Mỹ nơi
có Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa là
những tổ chức phi tập trung hóa hoạt động phần lớn tại Quốc hội
và cấp bang. Rồi cứ bốn năm một lần các tổ chức
này lại tập hợp lại ở cấp quốc gia để khởi động chiến dịch tranh
cử tổng thống. Các chiến dịch bầu cử ở một nền dân chủ
thường phức tạp, tốn nhiều thời gian và đôi khi rất ngớ
ngẩn, nhưng vai trò của chúng rất quan trọng. Bầu cử
là phương pháp hòa bình và
công bằng, theo đó người dân có thể lựa chọn
các nhà lãnh đạo và quyết định chính
sách công.
Các
nhóm
lợi
ích và tổ chức phi chính phủ
Công
dân ở một nền dân chủ có thể tham gia các tổ
chức cá nhân hoặc tình nguyện, trong đó
có các nhóm lợi ích. Các nhóm
lợi ích cố gắng bằng cách nào đó gây
ảnh hưởng đối với chính sách công và thuyết
phục các quan chức ủng hộ những quan điểm của họ. Chỉ
trích có thể làm giảm ảnh hưởng của những “lợi
ích đặc biệt” nhưng nó giúp người dân nhận
ra rằng nền dân chủ bảo vệ quyền của những nhóm lợi
ích như vậy để tổ chức và đấu tranh cho những quyền lợi
của họ.
Nhiều
nhóm lợi ích truyền thống đã được tổ chức xuất
phát từ các vần đề kinh tế; các nhóm kinh
doanh và nông nghiệp; các liên đoàn
lao động tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong hầu hết các hệ
thống dân chủ. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ gần
đây, các nhóm lợi ích đã lớn mạnh cả
chất lượng lẫn số lượng, bao quát hầu hết các lĩnh vực
như xã hội, văn hóa, chính trị và thậm
chí cả các hoạt động tôn giáo. Các tổ
chức chuyên môn cũng lớn mạnh cùng các
nhóm lợi ích công ủng hộ sự nghiệp của họ từ cải
thiện việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo đến bảo vệ
môi trường - những vấn đề có thể không trực tiếp đem
lại lợi ích cho thành viên các nhóm.
Bản thân các chính phủ có thể cũng hoạt động
giống các nhóm lợi ích. Ở Mỹ, các hiệp hội
thống đốc bang, thị trưởng những thành phố lớn và
các cơ quan lập pháp bang thường xuyên vận động
quốc hội Mỹ thông qua những vấn đề mà họ quan tâm.
Động lực
của nền chính trị nhóm lợi ích khá phức
tạp. Quy mô của các nhóm có vai trò
quan trọng, các nhóm với số lượng lớn thành
viên trên cả nước sẽ tự động lôi kéo được sự
quan tâm chú ý của các quan chức. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp, những nhóm có quy
mô nhỏ, được tổ chức chặt chẽ và cam kết mạnh mẽ đối với
những vấn đề của họ cũng có thể gây ảnh hưởng lớn so với
số lượng thành viên của họ.
Một trong
những phát triển đáng kinh ngạc nhất trong vài
thập kỷ gần đây là sự xuất hiện các tổ chức phi
chính phủ trên quy mô toàn cầu. Với nỗ lực
phục vụ nhu cầu của cộng đồng, quốc gia hay vì một sự nghiệp
được xác định là những vấn đề toàn cầu, các
tổ chức phi chính phủ này cố gắng hỗ trợ, thậm chí
thách thức sự điều hành của chính phủ bằng
cách ủng hộ, tuyên truyền và thu hút sự
chú ý đối với những vấn đề chủ yếu và giám
sát hoạt động của chính phủ và khu vực tư
nhân.
Các
chính phủ và tổ chức phi chính phủ luôn
là đối tác của nhau. Các tổ chức phi chính
phủ cung cấp chuyên gia và hướng dẫn chuyên
môn nhằm thực hiện những dự án do chính phủ
tài trợ. Các tổ chức phi chính phủ có thể
không có liên kết về chính trị hoặc có
thể hoạt động trên lý tưởng đảng phái và
tìm cách thúc đẩy một sự nghiệp cụ thể hoặc một
loạt sự nghiệp nào đó vì lợi ích của
nhân dân. Dù hoạt động theo hướng nào
thì vấn đề mấu chốt là ở chỗ nhà nước kiểm
soát hoạt động của các tổ chức phi chính phủ ở mức
thấp nhất.
QUAN
HỆ
QUÂN
SỰ VÀ
DÂN SỰ
Vấn đề
chiến
tranh và hòa bình là vấn đề trọng yếu nhất
mà bất cứ quốc gia nào cũng có thể phải đối mặt,
đặc biệt ở những thời điểm khủng hoảng. Nhiều quốc gia phải đưa
quân đội lên nắm quyền lãnh đạo. Điều đó
không xảy ra ở các nền dân chủ.
Ở
các nền
dân chủ, vấn đề quốc phòng và mối đe dọa đối với an
ninh quốc gia phải do nhân dân quyết định thông qua
các đại diện mà họ bầu lên. Quân đội ở một
nền dân chủ phải phục vụ đất nước chứ không lãnh đạo
đất nước. Các lãnh đạo quân đội cố vấn cho
các nhà lãnh đạo được bầu lên và thực
hiện những quyết định của họ. Chỉ có những người được dân
bầu lên mới có trách nhiệm và quyền lực tối
cao trong việc quyết định vận mệnh của dân tộc. Nguyên tắc
kiểm soát dân sự đối với quân đội là
nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ.
Các
lãnh
đạo
dân sự cần lãnh đạo quân đội quốc
gia và quyết định những vấn đề quốc phòng không
phải bởi vì họ giỏi hơn các chuyên gia quân
sự mà bởi vì họ là đại diện của nhân
dân và do vậy họ có trách nhiệm đưa ra những
quyết sách và chịu trách nhiệm về những quyết định
đó.
Ở một
nền
dân chủ, quân đội tồn tại để bảo vệ đất nước và
các quyền tự do của nhân dân. Quân đội
không được đại diện hay ủng hộ bất cứ quan điểm chính trị
nào, không được ủng hộ các nhóm sắc tộc hoặc
nhóm xã hội nào. Quân đội phải trung
thành với những lý tưởng lớn hơn của dân tộc, trung
thành với pháp quyền và nguyên tắc dân
chủ. Mục tiêu của quân đội là bảo vệ xã hội
chứ không phải định hình xã hội.
Bất cứ
một
chính phủ dân chủ nào cũng coi trọng chuyên
môn và tư vấn của các chuyên gia quân
sự trong việc thực hiện các quyết sách về quốc
phòng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có
lãnh đạo dân sự được bầu ra mới có quyền đưa ra
những quyết sách cuối cùng về phòng thủ quốc gia
và quân đội sau đó sẽ thực hiện những quyết định
đó.
Tất
nhiên
các tướng lĩnh quân đội cũng tham gia vào đời sống
chính trị với tư cách cá nhân như các
công dân khác. Nhân viên quân sự
có thể tham gia bỏ phiếu bầu cử. Tuy nhiên, tất cả
nhân viên quân sự phải ra khỏi ngành hoặc nghỉ
hưu mới có thể tham gia chính trị. Nghĩa vụ quân sự
phải tách biệt với chính trị. Quân đội là
đầy tớ trung lập của nhà nước và là người bảo vệ
xã hội.
NỀN
VĂN
HÓA
DÂN CHỦ
Đôi
khi
con
người
có những mong muốn mâu thuẫn nhau. Họ muốn an
toàn nhưng lại thích thú mạo hiểm; họ muốn
có tự do cá nhân, nhưng cũng đòi bình
đẳng xã hội. Nền dân chủ cũng vậy. Nhưng điều quan trọng
là phải nhận thức được rằng nhiều mâu thuẫn này,
thậm chí cả nghịch lý, đều hiển hiện ở mọi xã hội
dân chủ.
Xung
đột
và
đồng thuận
Theo
Larry
Diamond - học giả đồng thời là nhà văn - giữa xung đột
và đồng thuận tồn tại một nghịch lý cơ bản. Ở nhiều
phương diện, dân chủ chỉ là một tập hợp những quy định
quản lý xung đột. Đồng thời, mâu thuẫn này phải
được quản lý trong những giới hạn nhất định và dẫn đến sự
thỏa hiệp, đồng thuận hay những hình thức nhất trí
khác được tất cả các bên chấp nhận là hợp
pháp. Bất cứ sự thiên vị nào đều có thể đe
dọa sự cân bằng. Nếu như các nhóm coi dân chủ
chỉ là một diễn đàn để họ bày tỏ nhu cầu
thì xã hội có thể đổ vỡ từ bên trong. Nếu
chính phủ gây sức ép lớn nhằm đạt được sự đồng
thuận, bất chấp ý kiến của nhân dân thì
xã hội có thể bị đổ vỡ từ bên trên.
Không
có
giải
pháp đơn giản nào để cân bằng xung
đột và đồng thuận. Dân chủ không phải là một
cỗ máy có thể tự vận hành được khi những
các nguyên tắc hợp lý được đưa vào. Một
xã hội dân chủ cần phải có sự cam kết của người
dân, theo đó chấp nhận xung đột chính trị và
tri thức là điều tất yếu và điều cần thiết là phải
có sự khoan dung. Từ góc độ này, chúng ta
phải nhận thức được rằng nhiều xung đột trong xã hội dân
chủ không phải là sự xung đột giữa “đúng” hay
“sai”, mà là xung đột về cách diễn giải thế
nào là quyền dân chủ và ưu tiên
xã hội.
Giáo
dục
và
dân chủ
Giáo
dục
là
một
phần thiết yếu của bất cứ xã hội nào, đặc
biệt quan trọng đối với một nền dân chủ. Thomas Jeferson viết:
“Nếu một quốc gia muốn được ngu dốt và tự do trong một nền văn
minh hóa có nghĩa là họ mong muốn những gì
chưa bao giờ xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra”.
Có
sự
gắn
kết
trực tiếp giữa giáo dục và các giá trị
dân chủ. Trong các xã hội dân chủ, nội dung
và thực tiễn giáo dục hỗ trợ cho những thực tiễn trong
quản lý dân chủ. Quá trình truyền bá
giáo dục này cực kỳ quan trọng ở một nền dân chủ
bởi vì các nền dân chủ hiệu quả đều năng động,
xây dựng những mô hình quản lý yêu cầu
người dân phải tư duy một cách độc lập. Cơ hội tạo ra
những thay đổi tích cực về chính trị - xã hội nằm
trong tay của người dân. Chính phủ không được coi hệ
thống giáo dục là phương tiện truyền bá cho học
sinh mà cần dành nguồn lực cho giáo dục giống như
nỗ lực đảm bảo những nhu cầu cơ bản khác của người dân.
Đối
lập với
các xã hội chuyên chế tìm cách
áp đặt thái độ tiếp thu bị động, mục tiêu của nền
giáo dục dân chủ là đào tạo ra những
công dân độc lập, biết đặt vấn đề và thực sự quen
với những quan niệm và thực tiễn dân chủ. Chester.E. Finn
Jr., nghiên cứu viên cao cấp của Viện Chính
sách Giáo dục Hoover nói: “mọi người sinh ra vốn
đã có ham muốn tự do cá nhân, nhưng lại
không biết về những dàn xếp chính trị và
xã hội giúp mang lại tự do lâu dài cho bản
thân và con cái họ…Cần phải có những
dàn xếp đó. Họ cần phải biết về chúng”. Tìm
hiểu về dân chủ bắt đầu từ trường học và tiếp tục khi
chúng ta tham gia vào đời sống công dân, đồng
thời xuất phát từ sự tò mò muốn biết những loại
thông tin có thể tiếp cận được trong một xã hội tự
do.
Xã
hội
và
dân chủ
Chủ
nghĩa hợp
hiến dân chủ về cơ bản là nền tảng theo đó
các xã hội đạt đến sự thật - dù không
hoàn thiện - thông qua xung đột và thỏa hiệp
các ý tưởng, các thể chế và cá
nhân. Dân chủ là thực dụng. Ý tưởng và
giải pháp cho các vấn đề không được kiểm nghiệm
trên nền tảng một hệ tư tưởng cứng nhắc mà được kiểm
nghiệm trong một thế giới thực, ở đó người ta tranh luận, trao
đổi, chấp nhận hay loại bỏ chúng.
Như
học giả Diane
Ravitch nhận xét: “xây dựng liên minh là bản
chất của hành động dân chủ. Xây dựng liên minh
là chỉ cách cho các nhóm lợi ích
thương lượng với nhau, thỏa hiệp và vận hành trong hệ
thống hiến pháp. Bằng việc thiết lập liên minh, các
nhóm có quan điểm khác nhau tìm hiểu
cách tranh luận một cách hòa bình, theo
đuổi mục tiêu của họ một cách dân chủ và cuối
cùng để tồn tại trong một thế giới đa dạng”.
Chính
phủ
tự
quản
không phải lúc nào cũng tránh được
sai lầm, chấm dứt được xung đột dân tộc, đảm bảo phát
triển kinh tế hoặc giữ vững hạnh phúc. Tuy nhiên,
nó cho phép tranh luận công khai để xác định
và sửa chữa những sai lầm; cho phép các
nhóm gặp gỡ và giải quyết những khác biệt; mang
đến cơ hội phát triển kinh tế và giúp nâng
cao tiến bộ xã hội và sự bày tỏ của cá
nhân.
Josef
Brodsky, cố
thi sĩ người Nga và là người đoạt giải Nobel viết: “Một
người tự do khi thất bại anh ta sẽ không đổ lỗi cho ai”. Điều
này hoàn toàn đúng đối với công
dân ở các nền dân chủ. Họ phải chịu trách
nhiệm về vận mệnh của xã hội nơi họ sinh sống.
Bản
thân
dân chủ không đảm bảo điều gì. Thay vào
đó, nó đưa đến những cơ hội thành công
và cả nguy cơ thất bại. Trong lời khẳng định mang tính
cảnh báo nhưng đầy triết lý của Thomas Jeferson,
dân chủ hứa hẹn “cuộc sống, sự tự do và mưu cầu hạnh
phúc”.
Dân
chủ
khi
đó
vừa là sự hứa hẹn và là một thách
thức. Dân chủ hứa hẹn loài người tự do, hợp tác với
nhau, tự quản lý theo cách hướng tới thực hiện những
khát vọng về tự do cá nhân, cơ hội kinh tế
và công bằng xã hội. Dân chủ là
thách thức bởi vì sự thành công của nền
dân chủ phụ thuộc vào chính các công
dân chứ không phải ai khác.
Nguồn:
http://Vietnamese.vietnam.usembassy.gov
|
|
|
|
|
Tự Do Ngôn Luận, Quyền Căn Bản Của
Con Người và Nền Tảng Của Thể Chế Dân Chủ
Nguyễn
Học
Tập
A - Quyền căn bản của con
người.
Ước vọng dân chủ, quyền bình đẳng,
quyền tự do ngôn luận cùng với một số quan niệm về quyền
tự do khác của con người được viết thành văn bản
trên dưới 200 năm nay, trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập
Hoa Kỳ 1776 và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và
Quyền Công Dân Cách mạng Pháp 1789. Nhưng
những đòi hỏi của con người được đối xử bình đẳng với
người khác, có quyền tự do phát biểu ý kiến
để phổ biến tư tưởng của mình đến người đồng loại, nhứt
là đến những người cùng sống gần gũi mình, sống
trong cộng đồng với mình, có quyền quyết định lấy đời
sống của cá nhân mình, quyết định để bảo vệ người
thân thuộc mình và bảo vệ nhà cửa, đất đai
nơi mình đang cư ngụ, là những nhu cầu căn bản của con
người đã có từ ngàn xưa, từ thuở con người xuất
hiện trên mặt đất.
Những nhu cầu căn bản trên của con người
chúng ta vừa liệt kê, không có gì
khác hơn là quyền bình đẳng, quyền tự do
ngôn luận và thể chế dân chủ.
Các tư tưởng đó chúng ta
có thể tìm thấy dấu vết ngay trong ngôn ngữ Hy Lạp,
từ thời Cộng Hoà Athene, thế kỷ thứ 2-3 sau Thiên
Chúa Giáng Sinh.
Ngoài
ra
từ
ngữ "Demokratía", là danh từ kép, do
"demos": dân chúng; "krátos": quyền hành.
Quyền hành của Quốc Gia thuộc về dân chúng hay
dân chúng là chủ nhân của quyền lực Quốc Gia.
Hay "quyền tối thượng của Quốc Gia thuộc về dân" hay "Dân
Chủ", nói như ngôn từ của chúng ta,
Chúng
ta
cũng
có "Isonomía" là danh từ kép, do
"ísos": như nhau; "nómos": luật lệ. Luật lệ như nhau cho
tất cả mọi người hay "mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật"
Và
chúng
ta
cũng có "iségoria" là danh từ
kép, do "ísos": như nhau; "agorà": cộng đồng. Mọi
người đều như nhau, ngang nhau trong cộng đồng đang nhóm họp.
Mọi người có quyền lên tiếng, bày tỏ ý kiến
và biểu quyết như nhau trong cộng đồng đang tựu họp để quyết
định mục đích và phương thức phải có liên
quan đến cuộc sống chúng trong Thị Xã "Polis". Mọi người
đều có quyền lên tiếng như nhau trong các buổi họp
của cộng đồng để quyết định đường lối tổ chức (Politica, Politique,
Policy, Politik) cho cuộc sống chung trong cộng đồng Thị Xã
(Polis) hay "tự do ngôn luận".
Thể chế dân chủ tự do, quyền bình
đẳng trước pháp luật, quyền tự do ngôn luận vừa kể
và những quyền căn bản khác bất khả xâm phạm của
con người, được Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức
1949 liệt kê từ điều 2 đến điều 19, trước khi định nghĩa thể chế
Quốc Gia ở điều 20. Điều đó cho thấy Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức đặt nhân vị và các
quyền bất khả xâm phạm của con người, trong đó có
quyền tự do ngôn luận là quyền tối quan trọng, ở địa vị
trung tâm điểm và tối thượng trong tổ chức Quốc Gia, ngay
cả trước khi định nghĩa để xác định thể chế Quốc Gia.
Quốc Gia được xây dựng để phục vụ con người
chớ không ngược lại. Do đó Quốc Gia đứng ra bảo vệ con
người ngay ở điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp:
"Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm"
Những quyền căn bản bất khả xâm phạm của
con người sẽ được kể sau đây là những quyền có
giá trị bắt buộc trực tiếp đối với lập pháp, hành
pháp và tư pháp" (Điều 1, đoạn 1 và 3, Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Các cơ chế quốc gia là những chủ
thể trực tiếp được quy trách cho việc tôn trọng và
bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, trong
đó có quyền tự do ngôn luận.Tôn trọng
và bảo vệ không có nghĩa chỉ là bảo vệ khỏi
bị vi phạm, đàn áp, mà còn tạo các
điều kiện thuận lợi để bảo đảm cho các quyền trên
có thể được thực thi và tồn tại.
B - Tự do ngôn luận
nền tảng của thể chế dân chủ.
Một trong những đặc tính không thể
thiếu của nền dân chủ, nếu muốn được gọi là dân chủ
thật sự, là những người lãnh đạo Quốc Gia nói
chung và Chính Quyền nói riêng là
những người lãnh đạo do sự đồng thuận của đa số.
Nói cách khác, Chính
Quyền trong thể chế dân chủ là Chính Quyền được
chính danh hóa (légitimé) do sự đồng thuận
của đa số.
Trong thể chế dân chủ, không ai tự
cho mình là đại diện của dân, hành xử quyền
của dân, do dân và vì dân, là
đội ngũ tiền phong của nhân dân, nếu không được đa số
dân chúng đồng thuận phong tước cho.
Quyền hành của thể chế dân chủ
là quyền hành phát xuất từ hạ cấp, được
thành phần dân chúng bị trị phong cho, ngược với
quyền hành trong chế độ quân chủ hay độc tài tự
tôn, cho rằng quyền lực mình hành xử là
quyền bính do họ tộc, cha truyền con nối hoặc do chính
mình đoạt được, do đảng mình quy cho, do thiên mệnh
hoặc do dân chúng đồng thuận mặc nhiên giao cho
không cần kiểm chứng. Nói cách khác quyền
hành trong thể chế quân chủ hay độc tài là
quyền hành phát xuất từ bên trên.
Quyền hành không do dân
chúng đa số đồng thuận phong cho, không phải là
quyền hành dân chủ.
a) Tự do
ngôn luận trong tiến trình chọn người lãnh đạo.
Cách thức chọn người đại diện mình
lãnh đạo trong thể chế dân chủ được Hiến Pháp 1949
Cộng Hoà Liên Bang Đức tuyên bố: "Các
Dân Biểu Hạ Viện (Bundestag) được tuyển chọn qua các cuộc
đầu phiếu phổ thông, trực tiếp, tự do, bình đẳng và
kín" (Điều 38).
Các tĩnh từ "phổ thông, trực tiếp,
bình đẳng và kín" nêu lên những đặc
tính khá minh bạch, có lẽ chúng ta
không cần hay chưa cần đề cập đến, nếu chúng ta chưa
xác định được thoả đáng tĩnh từ "tự do".
Từ ngữ "tự do" ở đây, không chỉ
dùng để đề cập đến động tác bỏ phiếu không bị giới
hạn, không bị áp chế của người dân trong lúc
bỏ phiếu, mà còn hàm chứa những điều kiện phải
có trước đó.
Bởi lẽ không có những điều kiện phải
có (sine qua non) trước đó, động tác được coi
là "tự do" trong ngày bỏ phiếu, sẽ không thể hiện
được "tự do" bao nhiêu để có thể tuyên bố và
bảo đảm cho dân chủ.
Đó là chưa kể đến những hình
thức "tự do giả tạo" của chính động tác bỏ phiếu.
Những điều kiện tiên quyết không thể
thiếu, trước khi có cuộc bầu cử "tự do", có khả năng
phong tước một cách dân chủ cho những ai đại diện
dân lãnh đạo Quốc Gia là trong thời gian chuẩn bị,
các quyền "tự do
ngôn luận, tự do truyền bá tư tưởng, tự do lập hội
và tự do gia nhập hội " phải được tôn trọng.
Nói cách khác, trong thời
gian chuẩn bị, người dân phải có quyền lập đảng và
gia nhập đảng. Các chính đảng được tự do thành lập
và hoạt động, có quyền tự do ngôn luận để phổ biến
đến dân chúng lý tưởng dân
chủ, các bậc thang giá trị phải được tôn trọng,
chính sách lãnh đạo Quốc Gia và các
chương trình khả thi và hữu hiệu mà mình
muốn thực hiện cho Quốc Gia.
Muốn cho cuộc bầu cử có ý nghĩa
dân chủ thực sự, các chính đảng phải có thời
gian và tự do để phổ biến và thuyết phục dân
chúng những gì chúng ta vừa đề cập.
Các chính đảng phải có quyền
tự do ngôn luận, được xử dụng các phương tiện truyền
thông để chuyển đạt đến dân chúng chủ trương
và chương trình thực hiện cho đất nước. Các
chính đảng phải được tự do thành lập, hoạt động, xử dụng
các phương tiện truyền thông mà không bị
hâm doạ.
Các chính đảng phải được tự do tạo
ra dư luận quần chúng.
Bởi vì nếu chúng ta đồng ý
rằng đặc tính không thể thiếu của thể chế dân chủ
là "Chính Quyền của thể chế dân chủ là
chính quyền được phát sinh do sự đồng thuận của đa số
dân chúng" (Giovanni Sartori, Democrazia, Che Cosa
è?, Milano, Rizzoli, 61), thì "... nền tảng của
Chính Quyền dân chủ là sự đồng thuận của quần
chúng" (Dicey, A.V., Lectures on the Relation Between Law and
Public Opinion in England during the XIX Century, London, MacMilan,
1905,3).
Chúng ta nên lưu ý là
chúng ta đang dùng danh từ "sự đồng thuận" (consensus)
của dân chúng thay vì "dư luận quần chúng"
(opinio).
Dân chúng đồng thuận (consensus, do
từ ngữ La Tinh cum: với nhau, và sensus (sentire): cảm thấy. Như
vậy "đồng thuận" (consensus): cùng chung với nhau cảm thấy, cảm
thấy như nhau, từ đó liên kết nhau, chung nhiệm vụ với
nhau).
Đồng thuận với nhau hay cùng cảm thấy như
nhau về những gì:
đồng
thuận nhau về các bậc thang giá trị và lý
tưởng phải hướng đến trong việc tổ chức Quốc Gia,
đồng
thuận nhau về định chế để thực hiện các lý tưởng
và giá trị đó vào cuộc sống thực tế của
cộng đồng Quốc Gia,
đồng
thuận chọn người đại diện mình để thừa hành.
Nhưng muốn đồng thuận phải có ý
kiến. Đồng thuận về vấn đề gì? Ý kiến là đối tượng
của sự đồng thuận.
Nhưng ý kiến không tự dưng có
được. Ý kiến được phát sinh sau khi chúng ta được
thông tin, suy tư, chọn lọc, đúc kết.
Muốn có ý kiến quần chúng
thật sự được tự do kết thành trong thể chế dân chủ,
chúng ta cần có 3 điều kiện:
tự do tư
tưởng,
tự do
ngôn luận để truyền bá tư tưởng,
các
nguồn
thông
tin đa nguyên.
Người dân phải được tự do thu thập
các nguồn tư tưởng và có quyền kiểm soát
những gì được nói ra, viết ra xem có phù
hợp với sự thật hay không, những gì được nói được
viết ra có phù hợp với sự thật đã được nói
ra, đã xảy ra hay không.
Tầm mức quan trọng đó đã được Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức đứng ra bảo đảm:
"Mọi công dân đều có quyền phát biểu
và truyền bá một cách tự do ý kiến của
mình bằng lời nói, bằng chữ viết và hình
ảnh, và được tự do thông tin mà không bị cản
trở, từ các nguồn truyền thông mà ai cũng tham dự
được. Tự do báo chí và tự do truyền thông
bằng đài phát thanh (phương tiện tân tiến nhứt đến
năm 1949) và điện ảnh được bảo đảm. Không có một sự
kiểm duyệt nào có thể được chấp nhận" (Điều 5, Hiến
Pháp 1949 CHLBĐ).
Thiếu quyền kiểm chứng sự thật làm bảo
chứng, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để truyền
bá tư tưởng sẽ biến thành tự do lường gạt, tự do mạ lỵ,
tự do truyền bá những điều thất thiệt.
Do đó quyền tự do ngôn luận được gắn
liền với quyền tự do kiểm chứng sự thật và tố giác những
tuyên truyền thất thiệt, lường gạt và mạ lỵ.
Nhà Nước XHCN với chế độ độc quyền
giáo dục, kiểm soát phương tiện truyền thông, độc
tôn về ý thức hệ XHCN, nghiêm cấm văn hoá
và tư tuởng, tin tức của các "người nước ngoài",
có tôn trọng tự do ngôn luận, phương tiện
chính yếu để đưa đến sự đồng thuận đích thực, nền tảng
của thể chế dân chủ không? Hỏi để chúng ta trả lời.
Tự do tư tưởng và tự do ngôn luận để
truyền bá tư tưởng để kiến tạo dân chủ như vừa thấy, phải
được bầu không khí an ninh che chở.
Được luật pháp che chở chưa đủ (giả sử
luật pháp có giá trị thực hữu trong cơ chế XHCN),
cần phải có môi trường sống không làm cho con
người phải sợ sệt. Hệ thống công an dày đặc kiểm
soát từ thành thị đến thôn quê, một cử chỉ,
một lời nói không "nhất trí" với Đảng và
Nhà Nước đều không thể qua khỏi cặp mắt cú vọ của
công an và đương sự sẽ được công an chiếu cố mời đi
"làm việc" ở văn phòng công an phường, công
an xóm.
Và ai có đặc ân được Đảng
chiếu cố kỹ hơn, sẽ được Đảng cho đi "học tập cải tạo" không biết
ngày về.
Trong bầu không khí vừa kể, người
dân có được an tâm, che chở hay "bảo đảm" của điều 5
Hiến Pháp 1949 CHLBĐ vừa kể không?
Hỏi để chúng ta trả lời.
Bởi lẽ "một khi sợ không dám
nói ra những điều mình suy nghĩ, dần dần nguời ta cũng sẽ
không còn muốn suy nghĩ những điều mình không
dám nói nữa" (Giovanni Sartori, op. cit., 69).
Câu văn vừa trích dẫn của
giáo sư Giovanni Sartori cho thấy sự liên hệ giữa tự do tư
tưởng và tự do ngôn luận.
Không có điều kiện để con người được
tự do tư tưởng, thì tự do ngôn luận cũng không thể
có được. Và không có tự do ngôn luận,
sẽ không thể có tự do tạo dư luận và không
có sự đồng thuận đích thực, yếu tố thiết yếu để chọn
người đại diện một cách dân chủ lãnh đạo Quốc Gia.
Nói tóm lại, không có
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, sẽ không có Quốc
Gia dân chủ đích thực.
b) Tự do
ngôn luận và dân chủ luân phiên.
Ai trong chúng ta cũng biết, trong một thể
chế dân chủ, khi có cuộc bầu cử thì có kẻ
thắng người thua.
Nhưng thua, không có nghĩa là
bị loại khỏi vòng chiến, bị loại khỏi môi trường và
đường lối chính trị lãnh đạo Quốc Gia. Thành phần
thiểu số không thắng cử cũng cần thiết cho cuộc sống dân
chủ như nhóm người đắc cử đương quyền (G. Sartori, op. cit.,
59-78).
Người Anh thường gọi thành phần thua cuộc,
thiểu số đối lập, thất cử trong cuộc bầu cử Quốc Hội vừa qua là
Chính Phủ Trong Bóng Tối (Shadow Government).
Chính Phủ Trong Bóng Tối đang chờ
để chuẩn bị ra ánh sáng lãnh đạo Quốc Gia trong
nhiệm kỳ tới, với chương trình hiệu năng hơn và hấp dẫn
hơn những gì giới đương nhiệm đang làm.
Thành phần đối lập hành xử quyền
đối lập của mình bằng cách chỉ trích, kiểm
soát, thắng bớt, cân bằng, điều chỉnh chính hướng
lãnh đạo Quốc Gia sao cho đường lối chính trị đó
"thích hợp và hiệu năng", mưu lợi ích cho xứ sở.
Ngay cả việc thành phần đối lập phản đối
hay cắt giảm ngân sách công qũy hàng năm cũng
đã là tiếng nói cảnh tỉnh cho "thích hợp
và hiệu năng" đối với đường lối và hoạt động của giới
đương nhiệm. Đó là chưa nói đến những ý
kiến đồng thuận, sửa đổi hay phản đối trên những lãnh vực
khác, đối nội cũng như đối ngoại.
Với khả năng trung hoà, hạn chế quyền lực
Quốc Gia mà giới đương nhiệm đang hành xử bằng những hoạt
động của mình, thành phần thiểu số đối lập cộng
tác tăng cường "hiệu năng" cho nguyên tắc dân chủ
và pháp trị để bảo toàn và nới rộng
thêm khuôn thước tự do của cá nhân (Gherig,
Gewalenteilung zwissen Regierung und parlamentarische Opposition, in
DVBL, 1971, 633s).
Sự hiện diện của thành phần thiểu số đối
lập là tiếng chuông cảnh tỉnh luôn gióng
lên bên tai rằng thời gian hành quyền của
Chính Phủ đương nhiệm được tính từng ngày một.
Cuộc đời của Chính Phủ đương nhiệm sẽ cáo chúng
vào dịp tuyển cử tới, nếu họ không tuân luật
pháp, đi ngược lại nhu cầu và ước vọng của dân
chúng, nếu họ không quản trị hiệu năng và vì
lợi ích chung, thay vì thiên vị, bè
phái như họ đang làm.
Xác tính được vai trò trọng
yếu không thể thiếu đó của thành phần thiểu số đối
lập trong thể chế dân chủ, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ
dành cho thành phần đối lập khả năng thực hữu để "chỉ
trích, kiểm soát, thắng bớt, cân bằng, điều chỉnh
chính hướng Quốc Gia" đối đầu với các âm mưu lạm
quyền lúc nào cũng có đối với giới đương quyền.
Và đây là bằng chứng: "Viện
Bảo Hiến Liên Bang sẽ quyết định) trong trường hợp bất đồng
ý kiến hay nghi vấn về các vấn đề hợp hiến hay bất hợp
hiến giữa luật pháp Liên Bang hay luật pháp của
Tiểu Bang đối với Hiến Pháp hiện tại, hoặc giữa luật pháp
của Tiểu Bang với các đạo luật của Liên Bang, nếu được
Chính Phủ Liên Bang, Chính Phủ của một Tiểu Bang
hay 1/ 3 Nghị Sĩ Hạ Viện Liên Bang yêu cầu" (Điều 93, Hiến
Pháp 1949 CHLBĐ).
Đoạn văn "Chính Phủ của một Tiểu Bang hay
1/3 nghị sĩ của Hạ Viện Liên Bang yêu cầu" cho thấy Hiến
Pháp 1949 CHLBĐ nâng cao khả năng "đối lập" của
thành phần thiểu số đối lập lên lằn mức "khả thi".
Trong một Quốc Gia Liên Bang như CHLBĐ hay
Hoa Kỳ, thành phần đa số đang chiếm đa số ghế trong Quốc Hội
và lãnh đạo Chính Phủ Liên Bang. Nhưng
thành phần thiểu số đối lập có thể đang lãnh đạo
Chính Phủ ở một hay nhiều Tiểu Bang nào đó, cũng
như đang chiếm 1/3 số ghế trong Hạ Viện Liên Bang.
Hiến Pháp xác định là mỗi
khi có một Chính Phủ của một Tiểu Bang hay 1/3 nghị sĩ Hạ
Viện Liên Bang yêu cầu là Viện Bảo Hiến sẽ duyệt
xét tính cách hợp hiến hay vi hiến của các
đạo luật mà giới đương quyền đưa ra.
Quyết định như vậy là Hiến Pháp
trao cho thành phần thiểu số đối lập khả năng thực hữu kiểm
soát tính các hợp hiến hay vi hiến các luật
pháp được ban hành và hoạt động của Chính
Phủ cũng như thành phần đa số trong Quốc Hội.
Nói cách khác Hiến
Pháp 1949 CHLBĐ đã trao cho thành phần đối lập
có thực quyền để thừa hành "quyền và nhiệm vụ" đối
lập của mình, bênh vực quyền lợi cho xứ sở, bênh vực
quyền và tự do cho người dân.
Thành phần thiểu số đối lập trong Hiến
Pháp 1949 CHLBĐ không phải chỉ là "nghị gù,
nghị gật", và cũng không phải là nô bộc
"vâng, dạ", luôn luôn "nhất trí" của Đảng
và Nhà Nước, trong thể chế trong đó:
"Đảng là Bậc Thầy không thể sai lầm
về phương diện ý thức hệ; về phương diện áp dụng thực
hành, Đảng là sự Chính Xác Tuyệt Đỉnh; về
phương diện trí thức, Đảng là Thần Thánh" (R.G.
Wesson, Lenin’s Legacy: The Story of CPSU, in The Breznev Party,
Standford Univ., Standford, California, 1978, 255).
Như vậy, thiểu số đối lập là yếu tố
không thể thiếu để "chỉ trích, kiểm soát, thắng
bớt, cân bằng và điều chỉnh" cũng như là yếu tố
"dân chủ luân phiên" (Alternanzdemokratie) của nền
dân chủ đích thực, khác với lối hành xử độc
tài, độc đảng, tự tôn và tự phong tước cho
mình để cố bám lấy quyền lực (Schneider- Zeh,
Parlamentsrecht und Parlamentspraxis in der Bundesrepublik Deutschland,
Berlin - New York, 1989, 1063-1064).
Thiểu số đối lập không có quyền tự
do đối lập, không có dân chủ luân phiên,
sẽ không có dân chủ.
Sự hiện diện của thành phần thiểu số đối
lập là hình thức bảo vệ dân chủ và
làm cho "Dân Chủ Cầu Tiến, Dân Chủ Hiệu Năng" thay
vì "Dân Chủ Ngủ Gà Ngủ Gật, Dân Chủ Bè
Phái, Dân Chủ Đảng trị" và "Dân Chủ Giả Dạng"
(Gherig, op. cit., id.).
Nhưng tất cả những gì cao đẹp vừa kể được
Hiến Pháp giao cho thành phần thiểu số đối lập để bảo vệ
và làm cho dân chủ được phát huy sẽ trở
nên vô dụng, nếu Hiến Pháp không đứng ra bảo
vệ quyền tự do ngôn luận.
Và đó là những gì
Hiến Pháp 1949 CHLBĐ đã tiên liệu: "Mọi người đều
có quyền phát biểu tư tưởng của mình bằng lời
nói, chữ viết và mọi phương tiện truyền thông
khác, có quyền được thông tin, mà
không ai được cấm cản, từ những nguồn tin mà ai cũng
có thể biết được. Mọi hành vi cắt xén, kiểm duyệt
đều không thể được chấp nhận" (Điều 5, đoạn 1, Hiến Pháp
1949 CHLBĐ).
Không có quyền bày tỏ
ý kiến để "chỉ trích, kiểm soát, thắng bớt,
cân bằng, điều chỉnh", thực quyền Hiến Pháp dành
cho, thành phần thiểu số đối lập sẽ trở thành vô
dụng.
c) Tự do
ngôn luận và kiểm soát hạn chế quyền lực.
Hai yếu tố vừa được bàn đến, tự do bầu cử
và tự do đối lập, trong thể chế dân chủ không
có mục đích gì khác hơn là tạo được
một nhóm người đại diện lãnh đạo Quốc Gia nói
chung và Chính Quyền nói riêng được sự đồng
thuận của đa số chính danh hoá cho việc thừa hành
quyền lực Quốc Gia, hành xử trong giới mức hiến định và
hiệu năng để bảo vệ người dân và đem lại lợi ích
chung cho xứ sở.
Nhưng trong thể chế dân chủ, quyền lực Quốc
Gia được trao cho các người đại diện thừa hành phải được
người dân, chủ nhân của quyền lực tối thượng Quốc Gia
luôn luôn kiểm soát và hạn chế, nếu
không chủ nhân của quyền lực Quốc Gia có thể trở
thành nô bộc cho giới cầm quyền, bị đàn áp
và tước đoạt bởi những người đại diện, thay vì được họ
phục vụ.
Đặc tính trước tiên của các
Hiến Pháp của các Quốc Gia dân chủ Tây
Âu là đặc tính bảo chứng (garantisme), áp
dụng nhiều kỹ thuật bắt buộc giới hành quyền đương nhiệm phải
tuân theo, xác định lằn mức không thể vượt qua cũng
như những điều khoản bắt buộc phải thi hành, để bảo vệ quyền
và tự do của người dân, cũng như định hướng đường lối cai
trị hiệu năng và không thiên vị. Nhưng điều
chúng tôi muốn đề cập ở đây không phải
là nghiên cứu và bình luận những kỹ thuật
hiệu năng được áp dụng để bênh vực con người và tạo
nên thể chế dân chủ thực hữu (démocratie
substantielle) trong các Hiến Pháp vừa được đề cập
(chúng tôi đã có dịp bàn đến trong
bài SOẠN THẢO VÀ TU CHÍNH HIẾN PHÁP).
Điều mà chúng tôi muốn suy tư
ở đây, liên quan đến quyền tự do ngôn luận đang
bàn, là tự do ngôn luận, yếu tố tối quan trọng để
chọn người đại diện lãnh đạo quốc gia một cách dân
chủ thực sự và bảo đảm cho nền dân chủ cầu tiến và
hiệu năng, qua vai trò của thành phần đối lập, như
đã nói.
Ngoài ra quyền tự do ngôn luận được
các Hiến Pháp dân chủ Tây Âu
dành cho dân chúng như là dụng cụ để kiểm
soát hành vi của giới đương quyền lãnh đạo.
Ai trong chúng ta cũng biết để
tránh quyền lực tập trung vào tay một chủ thể duy nhứt,
vua trong thời quân chủ hay Đảng ở các Quốc Gia Cộng Sản,
các Quốc Gia dân chủ hiện nay phân chia quyền lực
Quốc Gia theo hàng ngang, lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Các quyền lực Quốc Gia
được chia như vậy độc lập, để kiểm soát và cân bằng
nhau (Checks and Balances) theo tinh thần của Hiến Pháp
Philadelphia 1787.
Ngoài ra cách phân chia
hàng ngang như vừa nói, các Hiến Pháp
dân chủ Tây Âu hiện nay còn phân chia
quyền lực Quốc Gia theo hàng dọc, từ trung ương đến địa phương,
cộng đồng địa phương (vùng, tỉnh, quận, tổ chức xã hội
trung gian, công đoàn, tổ chức kỷ nghệ và kinh tế).
Nói cách khác Hiến
Pháp đã trao cho các cộng đồng địa phương quyền tự
do ngôn luận để cộng tác xác định đường lối
chính trị Quốc Gia.
Tiếng nói của cộng đồng điạ phương
không phải là tiếng nói của người dân địa
phương chỉ liên quan đến nhu cầu và ước vọng dân
chúng sở tại, mà còn là tiếng nói
của những người dân cư ngụ trên một phần lãnh thổ
Quốc Gia bày tỏ ý kiến và đồng thuận liên
quan đến đường lối lãnh đạo cho cả đất nước, để kiểm
soát, hảm thắng, định hướng và quyết định trợ giúp
giới lãnh đạo đương quyền.
Đó là những gì Hiến
Pháp 1947 Ý giao phó cho người dân địa
phương
quyền đề
xướng dự án luật Quốc Gia:
* "Quyền đề xướng luật pháp thuộc về Chính Quyền, mỗi
thành viên của Lưỡng Viện Quốc Hội và các cơ
quan và tổ chức được luật hiến pháp giao cho.
Dân chúng hành xử quyền đề xướng luật pháp,
qua sự yêu cầu của ít nhứt 50.000 cử tri, bằng một dự thảo
luật viết thành điều khoản" (Điều 71, Hiến Pháp 1947
Ý).
* "Hội Đồng Địa Phương Vùng) hành xử quyền lập
pháp và thiết định quy chế được giao cho địa phương
và các vai trò khác được Hiến Pháp
và Luật Pháp quy trách cho. Hội Đồng Địa Phương
có thể trình bày các dự thảo đến Lưỡng Viện
quốc Hội" (Điều 121, id.).
quyền
triệu
tập
trưng cầu dân ý, bãi bỏ những đạo luật
không thích ứng với nhu cầu và ước vọng dân
chúng: "Trưng cầu dân ý để bãi bỏ
toàn diện hay một phần điều khoản luật pháp hoặc
các sắc lệnh có hiệu lực pháp định sẽ được đề
xướng, khi có 50.000 cử tri hoặc 5 Cộng Đồng Địa Phương
vùng yêu cầu" (Điều 75, đoạn 1, id.).
quyền
đại
diện
của Cộng Đồng Địa Phương tham dự bầu cử Tổng Thống: "Tổng
Thống Cộng Hoà được Lưỡng Viện Quốc Hội bầu ra trong phiên
họp chung của các thành viên.
Mỗi Cộng Đồng Địa Phương Vùng có ba đại diện được Hội
Đồng Vùng tuyển chọn tham dự cuộc bỏ phiếu, thế nào cho
các thành phần thiểu số cũng được đại diện" (Điều 83,
đoạn 1 và 2, id.)
quyền
thay
đổi
và bổ túc Hiến Pháp: "Các luật về
sửa đổi Hiến Pháp và các luật hiến pháp
khác được mỗi Viện Quốc Hội áp dụng đều phải được Quốc
Hội bỏ phiếu tán đồng qua hai cuộc bỏ phiếu trong khoản thời
gian không dưới ba tháng. Các luật vừa kể phải được
tán đồng của mỗi Viện Quốc Hội với đa số tuyệt đối (50%+1 phiếu)
ở lần bỏ phiếu thứ hai.
Các luật trên có thể được đưa ra trưng cầu
dân ý, nếu trong vòng 3 tháng sau
ngày công bố có 1/5 nghị sĩ của một Viện quốc Hội,
50.000 cử tri hoặc 5 Cộng Đồng Địa Phương Vùng yêu cầu"
(Điều 138, đoạn 1 và 2, id.).
quyền
các
vị
Chủ Tịch Cộng Đồng Địa Phương phải được mời tham dự
các phiên họp của Nội Các Chính Phủ
(Temistocle Martines, Lineamento di diritto regionale, Milano, 1997,
99).
Nói tóm lại, tất cả những kỹ thuật
giới hạn và dành quyền hạn rộng rải cho nhiều chủ thể
khác nhau trong Cộng Đồng Quốc Gia với quyền tự do ngôn
luận là dụng cụ, Hiến Pháp không có mục
đích gì khác hơn là quy trách, kiểm
soát và hạn chế những ai đại diện người dân
hành xử quyền lực Quốc Gia thay cho họ, để bảo đảm việc
tôn trọng và thực thi các quyền bất khả xâm
phạm của con người và hiệu năng hoạt động của giới hành
quyền, theo thể thức dân chủ và cho mọi thành phần
dân chúng có quyền và có phương tiện
tham dự thiết thực vào đường lối chính trị lãnh
đạo Quốc Gia.
Dân chủ, có nghĩa là người
dân là chủ nhân quyền lực Quốc Gia bất cứ lúc
nào, trước khi, đang khi và sau khi trao quyền cho người
đại diện. Bất cứ lúc nào Hiến Pháp cũng phải
tiên liệu cho người dân có phương tiện, và
quyền tự do ngôn luận là phương tiện thiết yếu không
thể thiếu, để góp phần tích cực để phát huy
và hoàn hảo hóa chính hướng, cũng như hảm
thắng, cắt bớt, kiểm soát hay khai trừ trong giới mức hiến định,
mọi lạm quyền chống lại phương thức hành xử thiếu hiệu năng,
bè phái và không tôn trọng nhân
vị con người.
d) Tự do
ngôn luận, quyền tự vệ của người dân.
"Bất cứ ai tạm thời bị bắt giam vì bị nghi
ngờ có hành vi phạm pháp, nội trong ngày
hôm sau, đều phải được dẫn đến trước quan toà. Vị quan
toà phải thông báo cho đương sự biết lý do
bị bắt giam, phải nghe đương sự trình bày hay làm
cách nào để đương sự có thể biện minh. Sau
đó quan toà hoặc phải đưa ra trác án giam
giữ bằng chữ viết hoặc phải ra lệnh phóng thích tức khắc"
(Điều 104, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Điều khoản vừa được trích dẫn cho thấy tầm
quan trọng của quyền tự do ngôn luận trong việc bảo vệ quyền tự
do của người dân, "Quan toà... phải nghe đương sự
trình bày hay làm cách nào để đương
sự có thể biện minh".
Cũng vậy: "Mọi người có quyền hành
xử quyền của mình ở toà án để bảo vệ chính
mình và lợi thú chính đáng của
mình. Quyền tự vệ là quyền bất khả xâm phạm ở bất
cứ tình trạng và đẳng cấp nào trong tiến
trình xử án. Đối với những ai không có
phương tiện, Quốc Gia có bổn phận thiết lập ra các cơ
quan, phương tiện để họ có thể hành xử để bênh vực
mình trước bất cứ phiên toà nào" (Điều 24,
đoạn 1,2 và 3 Hiến Pháp 1947 Ý quốc).
"Quốc Gia có bổn phận thiết lập ra
các cơ quan, phương tiện" để họ hành xử, điều đó
cho thấy không những quốc Gia đứng ra tuyên bố "... nhận
biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con
người..." (Điều 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc), mà
còn quy trách cho chính mình phải tạo
các phương tiện cần thiết để bảo đảm cho các quyền căn
bản của con người được thực hiện và được bảo vệ cho tồn tại,
trong đó quyền tự do ngôn luận là một.
Không có tự do ngôn luận,
người dân bị tước đoạt quyền tự vệ, một trong những quyền căn bản
của con người.
Và trước toà án:
"Trước
toà án, mọi người có quyền phải được các
thẩm phán lắng nghe theo thể thức luật định" (Điều 103, đoạn 1,
Hiến Pháp 1949 CHLBĐ.).
Còn nữa, trong cuộc sống thường nhật, ai
cảm thấy các quyền tự do của mình bị cơ chế Quốc Gia
xúc phạm, có thể đệ đơn tố cáo:
"Ai thấy
các quyền của mình bị cơ quan công quyền vi phạm,
có thể đệ đơn tố cáo với cơ quan tư pháp. Bởi
vì không có một cơ quan thẩm quyền nào
khác hơn là thẩm quyền của quyền tư pháp thường
nhiệm" (Điều 19, đoạn 4, id.).
Quyền tự do ngôn luận của người dân
trong thể chế dân chủ được quan niệm dưới hình thức
tiêu cực trong các Hiến Pháp dân chủ
Tây Âu, như là dụng cụ để bảo vệ công
chính cho người dân bị tình nghi phạm pháp,
hay trong trường hợp bị cơ quan công quyền làm tổn thương
các quyền tự do của mình, như chúng ta vừa thấy.
Quyền tự do ngôn luận được các Hiến
Pháp Tây Âu còn được quan niệm tích
cực hơn, tự do phát biểu tư tưởng của mình để góp
phần xây dựng Quốc Gia, sữa chửa những thiếu sót, bất
toàn và đề nghị những phương thức, mục đích hữu
hiệu và lợi ích hơn cho đất nước:
"Mỗi
người đều có quyền đệ đơn, tự mình hay cùng hợp
tác với những người khác, thỉnh nguyện thư hoặc
kháng thư đến cơ quan công quyền có thẩm quyền cũng
như đến cơ quan đại diện dân cử " (Điều 17 Hiến Pháp 1949
CHLBĐ).
Người dân hành xử quyền tự do
ngôn luận của mình một cách có hiệu quả hơn,
nếu họ cùng chung hành xử quyền tự do đó với người
khác.
Đó là những gì Hiến
Pháp 1947 Ý Quốc, không những không cấm cản
mà còn khuyến khích người dân của
mình hành xử quyền tự do ngôn luận, tham gia
vào các tổ chức chính đảng:
"Mọi
công dân đều được tự do gia nhập thành chính
đảng để cộng tác theo phương thức dân chủ xác định
chính hướng Quốc Gia" (Điều 49, Hiến Pháp 1947 Ý
Quốc).
Nói tóm lại, không có
tự do ngôn luận sẽ không có dân chủ,
các quyền căn bản của con người không được bảo đảm
và người dân không có phương tiện tối quan
trọng để góp phần hữu hiệu và hoàn hảo hóa
đường lối chính trị lãnh đạo Quốc Gia.
Nên tham gia bầu cử hay không,
câu hỏi hàm chứa ý nghĩa của một câu hỏi
khác: người dân Việt Nam đang được hưởng quyền tự do
ngôn luận, tự do lập hội và gia nhập hội, các
chính đảng có được tự do hoạt động, có thời gian
chuẩn bị tự do tạo ý kiến và sự đồng thuận của quần
chúng, để bầu cử hay không?
Nếu câu trả lời cho những điều kiện
tiên quyết vừa kể là câu trả lời phủ quyết, tự
nó cũng là câu trả lời phủ quyết của việc tham gia
bầu cử
Nguồn:
http://www.lenduong.net
|