Tư tưởng lập hiến của Phan
Châu Trinh
Phan Chu Trinh (1872-1926)
Tiểu Sử PHAN CHU TRINH
Phan Chu Trinh sinh năm Nhâm Tuất
(1872) niên hiệu Tự Ðức 26, tự là Tử Can, hiệu
là Tây Hồ, biệt hiệu là Hy Mã, quê ở
xã Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam .Thân phụ ông là Phan Văn Bì?h, theo nghề
võ và đã tích cực chiến đấu trong
hàng ngũ Cần Vương . Thân mẫu là Lê Thị
Chung, con một nhà thế gia vọng tộc tại làng Phủ
Lâm rất tinh thông Hán học và có nhiều
đức hạnh .Thuở thiếu thời Phan Chu Trinh được hiền mẫu ân cần
chăm sóc, trong khi phụ thân mãi lo công việc
võ biền . Chẳng may mẹ mất sớm, vì cha phải bận với
võ nghiệp, ít săn sóc đến việc học hành
hành nên mãi đến năm lên 10, Phan Chu Trinh
mới được vào trường học tập.Vì mối tình yêu
nước sớm nẩy nở trong trí của Phan Chu Trinh nên trong
lúc các bạn đồng học chăm chỉ ngốn những lời giảng dạy
của thầy để nhồi vào óc đạo lý và chữ nghĩa
của Thánh hiền, ông tỏ ra rất xao lãng, thờ ơ . Do
đó, trong suốt ba năm liền học tập, Phan Chu Trinh chỉ học lấy
lệ Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi phải
chạy trốn ra Quảng Trị . Các đạo Cần Vương kháng
Pháp nổi lên khắp các nơi . Ðể cho Phan Chu
Trinh có một nghề hợp khả năng và cũng đồng thời được đắc
dụng trong buổi non sông nghiêng ngửa, thân phụ
ông cho ông theo học nghề võ . Lúc bấy giờ
thân phụ ông được cử làm Chuyển vận sứ đồn A
Bá thuộc hạt Tam Kỳ .
Năm 1887, vì nghi kỵ, thân phụ
Phan Chu Trinh bị hại, việc học tập võ nghệ của ông bị
gián đoạn. Nhờ người anh cả rước thầy về cho ông tiếp tục
học nghề văn . Vì nhận thấy muốn có uy tín để thực
hiện chí lớn tron việc cách mạng để giành lại chủ
quyền của đất nước, nên ông đổi sang học nghề nghiên
bút, chớ thực ra ông không bao giờ thích
cái lối học hư văn .Theo học bốn năm ở nhà . Phan Chu
Trinh tỏ ra thông minh tuyệt vời, ông thường có
những lý luận sâu sắc , những nhận xét tinh vi .
Năm 1889, theo thụ nghiệp với vị Ðốc học
Trần Mã Sơn, Phan Chu Trinh được bổ vào ngạch học sinh .
Năm 1900, trong kỳ thi Hương, Phan Chu Trinh
thi đỗ Cử Nhân, và qua năm sau 1901, ông đỗ
Phó Bảng (nhằm niên hiệu Thành Thái thứ 13).
Ông được bổ làm Thừa Biện ở
Huế, ít lâu sau, người anh cả của ông mất, ông
xin về quê dạy học . Năm 1903, ông được bổ làm Thừa
Biện ở Bộ Lễ . Trong thời gian từ 1902 đế 1905, Phan Chu Trinh
có dịp học những tác phẩm có tư tưởng cách
mạng của Jean-Jacques Rousseau, Montesquieu, Voltaire ... Càng
tiếp xúc nhiều với các quan trường, Phan Chu Trinh
càng thấy rõ cảnh thối nát , hủ bại trên
đường cử nghiệp .
Lúc bấy giờ lực lượng Cần Vương lần
lần tan rã, thực dân Pháp bắt đầu đặt nền thống trị
trên đất nước Việt Nam .Trước cảnh non sông nghiêng
ngửa, nhận thấy sự bất lực và thối nát của triều
đình Huế, Phan Chu Trinh xin từ quan và bắt đầu hoạt động
chính trị với các ông Phan Bội Châu, Lương
Ngọc Can, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp .
Sau khi từ quan về hoạt động chính trị, Phan Chu Trinh đã
cùng với hai bạn đồng khoa là Trần Quý Cáp
và Huỳnh Thúc Kháng rủ nhau vào Nam vận
động đồng bào các giới . Vào đến Bình
Ðịnh gặp lúc quan tỉnh mở một kỳ thi cho học trò, đầu
bài là Chí thành thông thánh
và Lưỡng Ngọc danh sơn ba ông mạo tên là
Ðào Mộng Giác nộp quyển làm bài Phan
Chu Trinh làm bài thơ và hai ông Trần
Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng
làm bài phú . Những bài này
không theo quy tắc thông thường mà cốt để thức tỉnh
nhóm sĩ phu . Quan tỉnh không dám quả quyết phải
dịch sang chữ Pháp để trình viên Khâm sứ đồng
thời truy tầm tác giả của hai bài văn cách mạng
kia, nhưng không có kết quả Việc này đã
có ảnh hưởng lớn đến đám sĩ phu thời bấy giờ . Tới Phan
Thiết, Phan Chu Trinh bị bệnh phải quay trở về Huế . Sau mấy
tháng dưỡng bệnh, ông ra Bắc tìm cách
lên Yên Thế để gặp Hoàng Hoa Thám, nhưng
chính sách bạo động của Hoàng Hoa Thám
không thích hợp với chủ trương của ông, nên
ông lại xuống Trung Châu Bắc Việt vận động với nhóm
nho sĩ Bắc Hà . Ðâu đâu ông cũng đề xướng
chủ trương tân học, cực lực đả kích các quan trường
tham lam và những nhà hủ nho . Trong thời gian này
ông kết nạp được một số đồng chí đáng kể . Phan Chu
Trinh tán thành phong traò xuất dương du học do
Phan Bội Châu khởi xướng . Lời kêu gọi của Phan Bội
Châu, với sự hưởng ứng của Phan Chu Trinh gây được một
phong trào xuất dương rất rầm rộ . Ðể được quan sát
tại chỗ sự tiến triển của các nước, Phan Chu Trinh liền trốn
sang Trung Hoa . Ông gặp Phan Bội Châu tại Hương Cảng rồi
hai ông cùng sang Nhật. Ở đó được 10 tháng,
ông lên đường về nước (năm 1906) . Phan Chu Trinh quyết
đứng ra tranh đấu công khai với chính quyền bảo hộ
Pháp . Ngày 15 tháng 8 năm Bính Ngọ (1906)
, ông gởi lên Toàn Quyền Pháp ở
Ðông Dương một bức thư dài 12 trang gồm mấy điểm sau
đây :
- Do sự dung túng của chính
quyền Bảo Hộ mà những bọn tham quan ô lại lộng hành
khiến cho người Việt Nam bạc nhược suy yếu .
- Chính quyền Bảo Hộ đã
dùng một chính sách bạo ngược, tàn
ác đối với dânViệt Nam, không tôn trọng sinh
mạng con người, muốn chém giết ai tùy ý .
- Do những cách đối xử tàn
ác này, mà bọn quan lại lợi dụng quyền thế bắt nạt
dân chúng, tìm cách vơ vét cho đầy
túi tham, gây nên một tình trạng bi
đát trong dân chúng. Bức thơ của Phan Chu Trinh
đã có ảnh hưởng rộng lớn trong dân chúng .
Ông bắt đầu hoạt động mạnh, hô hào tổ chức nhiều
buổi diễn thuyết tại trường Ðông Kinh Nghĩa Thục . Thực
dân Pháp để ý căm thù và triều
đình Huế cũng rất bực tức quyết tìm cách
hãm hại ông. Nhưng Phan Chu Trinh vẫn không
màng đến, ông đứng ra lãnh đạo phong trào
duy tân, khuyến khích đồng bào mở trường dạy học,
lập các hội buôn như Ðông Kinh Nghĩa Thục, Hồng
Hưng Tân, công ty Minh Tân, ông cảm hóa
được rất nhiều nhân sĩ . Phan Chu Trinh lại hô hào
thanh niên vận Âu phục , cắt tóc ngắn, ủng hộ
các sản phẩm và hàng nội hóa để giúp
cho nền kinh tế trong nước được dồi dào . Ða số thanh
niên trong toàn quốc đã nhiệt liệt hưởng ứng phong
trào duy tân này .
Năm 1908, tại tỉnh Quảng Nam phong
trào kháng thuế nổi lên mạnh mẽ lan rộng các
tỉnh miền Trung Việt. Ðầu mùa Xuân năm 1908, thực
dân Pháp ra lệnh đóng cửa Ðông Kinh Nghĩa
Thục . Nhân việc kháng thuế ở Quảng Nam, vốn đã
không ưa Phan Chu Trinh vì ông đã nhiều lần
đả kích và nguyền rủa thậm tệ chúng, nên bọn
quan lại Nam triều và thực dân Pháp đổ cho
ông "xui dân làm loạn" và "phá rối"
liền bị hạ lệnh bắt ông ... Rất nhiều nhân sĩ bị bắt,
và trong dịp này, ông nghè Trần Quý
Cáp bị Nam Triều lên án xử chém tại Nha
Trang . Riêng Phan Chu Trinh bị bắt đem về giam tại tòa
Khâm Sứ. Ðể phản đối hành động khủng bố của thực
dân, Phan Chu Trinh tuyệt thực trong bảy ngày . Nhận thấy
tình thế khó xử, viên Khâm Sứ Pháp
phải giao trả ông về Cơ Mật Viện của tòa án Nam
Triều, ông bị bọn quan lại kết án tử hình . Nhờ
có hội Nhân Quyền can thiệp với chánh phủ
Pháp. Chính quyền Bảo Hộ phải điều đình với Nam
Triều đổi bản án "tử hình" ra "Côn lôn ngộ
xá bất nguyên" (bị đày ra Côn đảo mãn
kiếp không được ân xá ". Bỏ giam ở nhà lao
Phủ Thừa được it' lâu, Phan Chu Trinh bị đày đi Côn
đảo . Lúc đi ngang qua cửa Thượng Tứ (Huế), ông đã
ngâm bốn câu thơ bằng chữ Hán mà ông
Phan Khôi đã dịch như sau Mang xiềng nhẹ bước khỏi
đô môn,
Hăng hái hò reo lưỡi vẫn
còn
Ðất nước hãm chìm
dân tộc héo
Làm trai đâu xá thứ
Côn-lôn
Trong cảnh tù đày, nhưng Phan
Chu Trinh rất được chính phủ Pháp trọng đãi
và kính nể. Chính viên Thống Ðốc Nam Kỳ
đã ra tận Côn đảo để tìm hiểu lập trường tranh đấu
của ông . Năm 1910, nhờ có hội Nhân Quyền
Pháp (do sự vận động của ông Ernest Babut trong 3 năm
trời) can thiệp ráo riết với chính phủ Pháp, thủ
tướng Pháp lúc bấy giờ là Klobulowsky và
Tổng trưởng Bộ Thuộc địa là Trouillet lập Hội đồng để xét
án Phan Chu Trinh . Chánh Tham Biện tỉnh Mỹ Tho là
Cousineau được cử làm chánh án . Mặc dù
đã được ân xá, nhưng ông cũng bị thực
dân Pháp tìm cách giữ mãi tại Mỹ Tho
.Ông phản kháng và cương quyết đòi trở về
Côn Ðảo . Chính phủ Pháp đành phải để
ông tự do .Vì muốn tranh đấu có hiệu quả trong việc
cải cách nền chính trị nước nhà và đồng
thời để được học hỏi thêm, năm 1911, Phan Chu Trinh đã
sang Pháp với Toàn Quyền Klobulowsky, cùng theo
ông có người con trai tên là Phan Chu Dật .
Tại Ba Lê, ông gởi con
vào trường học còn ông thì lại làm
nghề rửa ảnh để sinh sống .Dù cho phải sống xa quê hương,
ông vẫn không ngừng hoạt động tranh đấu cho đất nước.
Ông viết báo Pháp phản đối việc đào lăng Tự
Ðức, yêu cầu chính phủ Pháp nên cấp tốc
thay đổi chính sách thuộc địa, giáo dục tinh thần
tranh đấu của Việt kiều tại Pháp . Ông tìm
cách liên kết với các lãnh tụ thuộc đảng cấp
tiến ở Pháp . Ông không tiếc lời đả kích
những nạn tham nhũng thối nát của thực dân Pháp ở
Ðông Dương và chỉ trích chính
sách cai trị của họ . Phái khuynh tả ở Pháp rất
tán thành việc làm của Phan Chu Trinh, nhưng
các quan lại ở các thuộc địa Pháp rất căm
thù và oán ghét . Tiền trợ cấp của
ông và tiền học bổng của con ông là Phan Chu
Dật đều bị truất, đó là kết quả sự trả thù của
thực dân .Hai cha con ông phải sống kham khổ và vất
vả với số lương rửa ảnh của ông hàng tháng
là 50 quan . Dù phải sống trong cảnh đói
rét, khốn khổ đủ mọi bề, Phan Chu Trinh vẫn cương quyết tranh
đấu cho lý tưởng cao cả .
Năm 1914, chiến tranh Pháp Ðức
bộc phát, tại quê nhà vua Duy Tân nhân
cơ hội đó gây biến, nhưng cuộc khởi nghĩa thất bại, Trần
Cao Vân và Thái Phiên bị xử chém . Vua
Thành Thái và Duy Tân bị thực dân
Pháp đày sang đảo Réunion .Vì không
chịu đi lính cho Pháp để đánh Ðức, Phan Chu
Trinh bị vu cáo là làm gián điệp cho
Ðức, nên ông bị bắt giam vào ngục SANTE . Nơi
đây ông bị hăm dọa đủ điều, nhưng tấm kiên trung vẫn
không bao giờ thay đổi . Dùng võ lực không
được, người ta đã đem tiền bạc, quyền tước để mua chuộc
ông , nhưng cũng vô hiệu quả . Nhờ sự can thiệp của
Ðảng Xã Hội và Hội Nhân Quyền Pháp, năm
1915 chính phủ Poinceré phải ký giấy phóng
thích ông. Vừa thoát khỏi cảnh giam cầm, Phan Chu
Trinh lại phải khóc con . Phan Chu Dật sau 6 năm học tập
đã thi đỗ bằng Tú Tài Vật Lý Học, được cha
ủy thác sứ mạng về nước để hoạt động . Vì bao năm sống
thiếu thốn đói lạnh, Chu Dật mang phải bệnh lao phổi . Về đến
quê nhà chưa đầy một năm, Chu Dật mất .
Năm 1922, vua Khải Ðịnh sang dự cuộc đấu
xảo quốc tế ở Ba Lê, Phan Chu Trinh gởi cho nhà vua một
bức thư lời lẽ nghiêm khắc buộc Khải Ðịnh phải thoái
vị nhường quyền lại cho quốc dân và kể bảy tội nhà
vua đã làm và đáng tội chém đầu
.Có đoạn ông đã viết : "... Một là vì
Trinh này đối cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn,
không còn một chút quan hệ gì, chỉ đứng
vào cái địa vị đối đãi mà thôi, cho
nên bức thư này không phải dâng lên cho
bệ hạ mà chính là gửi cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ
mà tôi dùng đây, chẳng qua là
cái tiếng xưng hô đã quen trong Hán văn
đó mà thôi ... ngày nay Trinh này đề
thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðảo là cái
tên húy của bệ hạ , để tỏ ý phản đối ." Bức thư của
ông, sau khi được công bố, khích động được tinh thần
tranh đấu của đồng bào trong và ngoài nước .
Năm 1925, chính phủ Pháp nhận
thấy Phan Chu Trinh là một người ái quốc chân
chính có chính sách ôn hòa,
nên có ý muốn giúp đỡ ông .
Phái tả đảng bên Pháp từ lâu đã
có cảm tình với ông được thắng phiếu trong cuộc bầu
cử Nghị Viện và lên nắm chính quyền . Thấy cơ hội
thuận tiện cho mình đem tài trí ra giúp
dân giúp nước, ông xin trở về quê nhà
và được chính phủ Pháp chấp nhận.
Về đến Saigon, Phan Chu Trinh có
ý định ở lại trong Nam ít lâu rồi sẽ ra Trung Bắc
để hoạt động. Dù tuổi già sức yếu, bệnh hoạn vì
bao năm sống vất vả thiếu thốn ở Pháp, Phan Chu Trinh vẫn hăng
hái tranh đấu . Ông vận động với nhà cầm quyền
Pháp để xin ân xá cho Phan Bội Châu bị bắt ở
Thượng Hải và sửa soạn hai bài diễn văn để đọc trước
công chúng :
1. Ðạo đức và luân
lý Ðông Tâỵ
2. Quân trị chủ nghĩa, dân trị
chủ nghĩạ
Hai bài diễn văn trên đây
đã bày tỏ được chính kiến của một nhà
cách mạng chân chính, với lòng yêu
nước nhiệt thành . Ngày 24-12-1925, sau khi hay tin việc
vận động xin ân xá của quốc dân đã có
kết quả và Toà Quyền Varenne đã ký giấy
ân xá Phan Bội Châu . Phan Chu Trinh định ra Huế để
được gặp người bạn đồng chí để cùng nhau tâm sự,
nhưng ông bị đau không đi được . Các sinh viên
trường Ðại học Hà Nội đánh điện văn mời ông ra
Bắc để diễn thuyết . Chưa kịp đi thì ông được biết tin vua
Khải Ðịnh mất . Phan Chu Trinh đánh điện tín cho
Pasquier Khâm sứ Trung Kỳ hay ông sẽ ra để lo việc cải tổ
triều chính và lập dân đảng .
Tiếc thay đại cuộc chưa thành, bệnh
tình của Phan Chu Trinh mỗi ngày một thêm trầm
trọng . Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm ngày 12
tháng 2 năm Bính Dần) nhà cách mạng
ái quốc Phan Chu Trinh đã trút hơi thở cuối
cùng, hưởng thọ được 55 tuổi . Một Hội đồng trị sự được
thành lập ngay đêm đó để lo việc an táng cho
ông ngày 4-4-1926 khắp từ Nam chí Bắc đều tự động
làm lễ bãi khóa và làm lễ quốc
táng nhà chí sĩ Phan Chu Trinh rất trọng thể để
chứng tỏ tấm lòng ngưỡng mộ và mến tiếc nhà
cách mạng đã suốt đời vì dân vì nước .
Nguồn:
http://xuquang.com/dialinhnk/danhsi/pct.htm
|
|
Phan
Châu Trinh (1872- 1926) là một trong những
nhân vật lịch sử tiêu biểu của cách mạng Việt Nam
cận đại, một nhà tư tưởng lập hiến Việt Nam
đầu thế kỷ XX.
Ông là người làng Tây Lộc,
huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc huyện Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam. Cha làm Quản sở sơn phòng, sau tham gia
Cần Vương. Lúc nhỏ Phan Chu Trinh theo cha học chữ và học
võ. Năm 28 tuổi (1900) đỗ cử nhân, cùng khoa với
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu. Năm sau, đỗ
Phó bảng, cùng khoa với Ngô Đức Kế, Nguyễn Sinh
Huy.. Phan Chu Trinh được bổ nhiệm làm Thừa biện Bộ lễ. Đến năm
1905 thì từ quan ông cùng Trần Quý
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng vào Nam Kỳ tìm
hiểu dân tình sinh khí, tìm người đồng
tâm, rồi ra Nghệ Ttĩnh, Hà Nội, lên căn cứ Đề
Thám và bí mật sang Hương Cảng gặp Phan Bội
Châu, rồi cùng sang Nhật.
Năm đó, ở Nhật về, ông xác định
đường lối cứu nước lâu dài của mình, phát
biểu chính kiến và có một số hoạt động . Đầu năm
1908, nhân vụ chống thuế ở Quảng Nam,
ông
bị
bắt
ở
Hà Nội và bị triều đình Huế kết
án "trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá
bất nguyên" (Giam chờ chém, đày ba ngàn dặm,
gặp dịp ân xá cũng không cho về) rồi đày từ
Côn Lôn. Năm 1910, được tha nhưng bị quản thúc ở Mỹ
Tho. Theo yêu cầu của ông, thực dân Pháp đồng
ý cho ông sang Pháp. Ở đây, ông vẫn
tiếp tục hoạt động theo đường lối mà ông đã tự
xác định. Từ đó đến năm 1926 là năm Phan Chu Trinh
mất ở Sài Gòn, cuộc đời ông là chuỗi
ngày tranh đấu cách mạng không ngừng.
Tư tưởng lập hiến là một bộ phận trong tư tưởng
cách mạng của Phan Chu Trinh, thể hiện qua các mặt chủ
yếu sau đây:
1. Nước Việt Nam
cần có Hiến pháp
Trong tư tưởng cách mạng Phan Châu Trinh,
ông thường đề cao hiến pháp, coi đó là
công cụ pháp lý để hạn chế quân quyền độc
tôn và hà lạm của chế độ quần chủ chuyên chế
phương Đông. Ông nói: "lấy theo ý riêng
một người hay một triều đình mà trị một nước, thì
cái nước ấy không khác gì một đoàn
chiên, được ấm no vui vẻ hay là phải đói lạnh khổ
sở, là tuỳ theo lòng rộng hay hẹp của người chăn
chiên. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị,
thì tự quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra
các cơ quan để lo chung cho mọi người..."1
Lấy mẫu mực là nền dân chủ ở nước
Pháp lúc bấy giờ, ông phân tích quan
hệ giữa Tổng thống và Nghị viện đặt trên cơ sở Hiến
pháp. Nguyễn Văn Dương, Phan Châu Trinh tuyển tập, Nxb
Đà Nẵng, 1995.
Chính Hiến pháp xây dựng và
bảo vệ sự ổn định của chế độ dân chủ pháp trị: "Khi Tổng
thống đã được bầu cử rồi, thì phải thề trước hai viện ấy:
"Cứ giữ theo hiến pháp dân chủ, không phản bạn,
không theo đảng này chống đảng kia, cứ giữ công
bình, nếu có làm bậy, thì dân
nó truất ngay. Trước thì có Macmahon, sau
thì có Mil1erand bị cách chức cũng vì vi
phạm hiến pháp"2.
2. Về chủ quyền quốc gia và độc lập
dân tộc
Phan Châu Trinh là một nhà yêu
nước lớn, đồng thời với Phan Bội Châu nhưng biện pháp cứu
nước của hai ông không giống nhau, nhất là con đường
thực hiện giành lại chủ quyền cho quốc gia, giải phóng
dân tộc...
Nếu Phan Bội Châu yêu nước bằng chủ trương
bạo động để giành độc lập, thì Phan Chu Trinh trái
lại, ông phản đối chủ trương bạo động cách mạng và
đi cầu viện nước ngoài để giành độc lập. ông muốn
nhờ vào chính quyền thực dân Pháp mà
làm chính trị công khai để “Khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh", để từ đó giành
lại chủ quyền cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân.
 |
Phan Châu Trinh (1872-1926)
Ông
là
nhà
cách
mạng
xã hội, có tư tưởng
dân chủ đầu tiên, là nhà văn hóa, một
nhân cách lớn.
Phan
Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong
trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một
nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ.
Có thể xem ông là người có tư tưởng
dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu
nước tiến bộ đầu thế kỷ.
Đặc
biệt hơn nữa, ông chọn con đường dấn thân tranh đấu nhưng
ôn hòa, bất bạo động. Ông coi dân chủ cấp
bách hơn độc lập và coi việc dùng luật
pháp, cai trị quy củ có thể quét sạch hủ bại phong
kiến.
Với
tinh thần yêu nước nồng nàn, suốt đời gắn bó với
vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khó
và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ,
noi theo ngày hôm nay...
>> Xem trang
Tác giả...
|
Chủ trương cơ bản của Phan Chu Trinh là: "ỷ Pháp cầu tiến
bộ" tức là dựa vào thực dân Pháp mà
cầu tiến bộ để từ đó tranh đấu với Pháp về các mặt
kinh tế, văn hoá, chính trị. Chủ trương ấy gọi là
"Pháp - Việt đề huề". Nhận xét về tư tưởng của Phan Chu
Trinh, trong Phan Bội Châu niêu biểu, Phan Bội Châu
đã viết: "Cụ thì muốn đánh đổ quân chủ,
mà cốt vun trồng lấy nền tảng dân quyền, dựa vàn
Pháp mà đánh đổ quân chủ. Còn
ý tôi thì trước muốn đánh đổ người
Pháp, chờ nước mình độc lập rồi, mới bàn đến việc
khác. Vì thế mà đương lúc đánh với
Pháp, phải lợi dụng quân chủ (...) Cụ thì muốn đi
theo lối dựa Pháp đánh đổ vua, tôi ưng đi theo lối
bài Pháp phục Việt, sở dĩ mâu thuẫn với nhau
là vì thể”3.
Phan Chu Trinh đề xướng và lãnh đạo phong
trào Duy Tân. Ông có ý định thiết lập
ở Việt Nam
một chế độ dân chủ tự trị. Tự trị nghĩa là tách
khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Trong Pháp -
Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam,
Phan
Chu
Trinh
viết:
'Tôi đã chủ trương tự trị, tin cậy
Pháp. Đã muôn cậy Pháp ắt không lợi
dung lòng dân oán Pháp (…). Tôi
đã chủ trương cậy Pháp thì thủ đoạn không
thể do tự trị mà ra. Tự trị cũng chẳng là việc dễ lắm
đâu, việc hỏng ắt cũng chết…” 4.
Như vậy, chủ trương của Phan Chu Trinh là dựa
vào Pháp để tự trị, còn Phan Bội Châu
thì bài Pháp để độc lập. Mặc dù Phan Chu
Trinh chưa có lần nào giải thích rõ
ý nghĩa của chế độ "tự trị" ấy, nhưng qua con đường tranh đấu
của ông cũng cho phép xác định được nội dung "tự
trị" ấy là tự cai trị mình, tách khỏi sự thống trị
của thực dân Pháp, tự trị cũng nguy hiểm như độc lập. Cho
nên một tài liệu của Phủ Toàn quyền Đông
Dương đã viết: "Mặc dầu khuynh hướng có vẻ khác
nhau ở bên ngoài như thế, người ta vẫn phải công
nhận rằng các hoạt động kia khớp với nhau chặt chẽ và đều
nhằm mục đích cuối cùng là đánh đuổi người
nước ngoài đi"5.
3. Về chế độ chính trị
Phan Chu Trinh kịch liệt phản đối chế độ quân chủ
mà ông gọi là "quân trị" và đòi
thực hiện chế độ cộng hoà tư sản mà ông gọi
là "dân trị".
Ông giải thích "Quân trị chủ nghĩa
tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng cứ tự tay
ông vua lập ra, chứ còn dân thì chẳng biết
gì hết. Vậy cho nên khi nào gặp một ông vua
thông minh, anh hùng, hiểu rõ cái sự quan hệ
dân với nước là thế nào mà trừng trị những
cái lũ tham quan, lại nhũng để dân được yên lặng
làm ăn, thì dân giàu nước mạnh...”6
. Ông cũng nói: "Nhân trị nghĩa là cái
phép luật thi hành rộng rãi hay là
nghiêm ngặt là tuỳ theo cái lòng vui, buồn,
thương ghét của một ông vua mà thôi,
còn pháp luật tuy có cũng như không"7.
Phan
Chu
Trinh
cho
rằng bên Châu Âu, người ta
đã thực hành từ lâu rồi chính thể
"Quân dân cộng trị mà Tàu dịch là
quân chủ lập hiến", tức như chính thể "nước Anh, nước Bỉ,
nước Nhật đang theo hiện nay"8.
So Sánh, ông khẳng định: "... cái
chủ nghĩa dân trị hơn cái chủ nghĩa quân trị nhiều”9,
bởi
vì
"theo
cái
chủ nghĩa dân trị, thì tự
quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ
quan để lo việc chung mọi người. Lòng quốc dân muốn thế
nào thì được thế ấy..."10. Năm 1922, khi vua
Khải Định sang Pháp, Phan Châu Trinh đã viết “Thất
điều thư" công kích trực diện chế độ quân chủ, định
tội của Khải Định và hầu như kêu gọi quốc dân
tuyên chiến để "nhổ đến tận gốc, lấp cho dầy nguồn, ra tay
quét sạch sành sanh vua, quan...
Phan Châu Trinh có đọc J.J. Ronsseau,
Montesquieu và sống nhiều năm ở Pháp, trong nhà
của Phan Văn Trường- một trí thức tân học, lại cũng
dã tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc và đã
bị Chính phủ Pháp bắt giam một thời gian... Thế mà
năm 1925, về Sài Gòn, ông giải thích
quân chủ lập hiến ở Châu Âu là "Quân
dân cộng trị", là bình đẳng theo lời dạy của Khổng
Tử: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân nhất thị giai dĩ
tu thân vi bản" tức là từ vua chí dân đều
phải lấy việc sửa mình làm gốc11 . Về chủ
nghĩa dân chủ, ông lại lấy câu của Mạnh Tử:
"Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh",
nghĩa là dân quý hơn hết, lãnh thổ thứ
nhì, vua là nhẹ rồi ông lại nói: "Đạo Khổng
- Mạnh đã mất rồi, nay ta muốn nước ta có một nền đạo
đức, luân lý vững vàng, thì có
gì hay bằng ta hết sức đem cái chủ nghĩa dân chủ
Châu Âu về. Chủ nghĩa dân chủ chính là
một vị thuốc tất thần hiệu dùng để chữa bệnh chuyên chế
của nước ta vậy. Đem văn minh Ââu Châu về, tức đem
đạo Khổng - Mạnh về"12. Nếu chỉ đọc đoạn này
thì có thể nghĩ đây là một cách
nói để dễ thuyết phục tầng lớp nho học. Nhưng, gắn liền
vào lời nói của Mạnh Tử về "dân vi quý”,
ông đã viết: "Ngày nay, bên Đức, bên
Pháp, bên Nga, tuy chính thể của họ có
khác nhau chút đỉnh nhưng đều thực hành cái
chủ nghĩa dân chủ cả"13.
Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng 10 đối với
Phan Châu Trinh còn rất ít, tư tưởng lập hiến của
ông đi theo con đường dân chủ tư sản. Tuy nhiên,
ông không bài bác chủ nghĩa xã hội.
Dù biết Nguyễn Ái Quốc đã chọn con đường cứu nước
khác mình, qua bức thư ngày 18/2/1922, ông
vẫn khuyên Nguyễn Ái Quốc về nước để quảng cáo,
tuyên truyền cho chủ nghĩa Mác - Lênin để cứu nước:
"Tôi biết anh hấp thụ được cái chủ nghĩa của ông
Mã Khắc Tư (Karl Marx), ông Lý Ninh (Lenine),
nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng
dẫn cho anh em rõ (...) Cứ xem hai ông Mã,
Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa, có ông
nào dùng cái lối nương náu đất người
mà làm quốc sự của mình, như anh đâu? Bởi
vậy, quả như anh tôn thờ lý thuyết hai ông ấy
thì anh nghe lời tôi mà về quảng cáo cho
quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết, có phải
là cái phương pháp hay biết chừng nào"14.
4. Về dân quyền Phan Châu Trinh là
người yêu nước lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng dân
chủ tư sản qua tân thư. Con đường cứu nước của ông
khác với Phan Bội Châu ở điểm cơ bản là ông
chủ trương bãi bỏ chế độ quân chủ phong kiến, thực hiện
dân chủ, khai thông dân trí, mở mang
công thương nghiệp. Không bạo động, không nhờ ngoại
viện, mà nhờ vào chính quyền thực dân, vin
vào những lời hứa hẹn của nhà cầm quyền để làm
chính trị công khai, mưu dân quyền, dân chủ
và hạnh phúc cho nhân dân. Cho nên,
có thể nói lý tưởng dân quyền là tư
tưởng căn bản quyết định hành động cách mạng của Phan
Châu Trinh.
Chủ trương xuyên suốt của ông là dựa
vào "nước Pháp là một nước làm tiền đạo văn
minh của hoàn cầu, nay hiện bảo hộ nước ta, mình
nhân đó mà học theo, chuyên tâm về mặt
khai tự trị sinh, các việc thực dụng, dân trí
đã mở rộng, trình độ ngày sẽ một cao, tức
là cái nền độc lập ngày sau ở đây"15.
Thứ văn Phan Châu Trinh tràn ngập
tình thương yêu người dân bị áp chế,
nghèo khổ và cực lực chống lại mọi kẻ quyền thế,
giàu có, tàn ác…
"Nhớ vợ thương con, dạ nặng trì,
Lên non còi túc, lệnh đòi đi.
Ba quân hiệu giáp nghe vang cả,
Hai mối tình sâu rẽ sá chi.
Non nước trót vương cơn bấn loạn,
Cửa nhà đành chịu kiếp phân ly.
Gươm thiêng một lưỡi anh từ giả.
Giọt máu anh hùng luỵ nữ nhi"16.
Hay
"Biết lấy chi chi trả ái ân,
Phần thời làng bắt nộp công ngân.
Đá vàng trơ đấy khôn đòi nợ,
Tiền bạc vơ dâu để rảnh thân.
Nghĩa mẹ ơn cha trời đất nặng,
Bán con đợ vợ tháng ngày lần.
Đắp đàng, đào suối, bòn vàng bể,
Khuấy khoả vì ai khổ kiếp dân"17.
Trong thư gửi Toàn quyền Paul Beau (Đầu
Pháp Chính phủ thư) tố cáo trước công luận
trong và ngoài nước về tội ác của thực dân
Pháp đối với nhân dân Việt Nam Phan Chu Trinh
đã kết luận theo hướng "Pháp - Việt đề huề" của ông
như sau: "Nếu Chính phủ quả thật sẵn lòng đồi hết
chính sách đi, kén chọn người hiền tài trao
quyền bính cho, lấy lễ mà tiếp, lấy thành
mà đãi, cùng nhau lo toan việc dấy lợi trừ hại ở
trong nước, mở đường sinh nhai cho dân nghèo, rộng quyền
ăn nói cho thân sỹ, báo quán cho mở rộng để
thông đạt tình dân, thưởng phạt cho nghiêm
minh để khuyên răn quan lại, còn dấn những việc đổi
pháp luật, bó khoa cử, mở trường học, đặt toà tu
thư, dạy lớp sư phạm, cho đến học công thương, học kỹ nghệ
và các ngạch giúp việc cho Chính phủ, chỉ
sợ người Pháp bỏ nước Nam mà đi, còn ai toan mưu
việc chống cự nữa?"18.
Trong Thất điều thư gửi vua Khải Định (1922), Phan Chu
Trinh cực lực công kích Khải Định và qua đó
lên án chế độ quân quyền độc tôn, quân
chủ chuyên chế, áp bức nhân dân.
Với tư tưởng ấy và hành động ấy, khi Phan
Chu Trinh qua đời, Huỳnh Thúc Kháng đã đọc trong
buổi tang lễ lời nhận xét: "Chủ nghĩa tiên sinh là
đánh đổ chuyên chế, là dân quyền tự do ..."19
5. Về cơ chế nhà nước và quản
lý nhà nước.
Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ
nghĩa, là bài diễn thuyết cuối cùng trong cuộc đời
hoạt động cách mạng của Phan Châu Trinh nói ở
Sài Gòn vào năm 1925, trước khi ông qua đời
(1926). Trong bài diễn thuyết này, ông đã
tập trung trình bày về cái mẫu nhà nước
lý tưởng cho Việt Nam
tương lai khi công cuộc duy tân hoàn thành.
Mô hình lý tưởng theo Phan
Châu Trinh là tổ chức nhà nước của các nước
phát triển ở Châu Âu lúc bấy giờ (như Anh,
Pháp... ). Tổng quát, nhà nước ấy được tổ chức
và điều hanh theo nguyên tắc cơ bản là “tam quyền
phân lập", với cơ chế 3 quyền độc lập với nhau: lập pháp
giao cho Nghị viện, hành pháp đứng đầu là
Giám quốc (Tổng thống) do Nghị viện bầu ra, và tư
pháp giao cho các cơ quan xét xử độc lập đối với
hai ngành ha. "Đó là theo cái lẽ ba quyền
là quyền lập pháp, quyền hành pháp
và quyền tư pháp đều riêng ra, không hiệp lại
trong tay một người nào” 20.
Bộ máy nhà nước ấy bao gồm các bộ
phận chủ yếu sau đây:
Nghị viện: Gồm có hai viện: Hạ nghị viện
và Nguyên lão viện.
Hạ nghị viện với số lượng Hạ nghị viên trên
dưới 60 người, do dân trực tiếp bầu ra, có nhiệm vụ
làm Hiến pháp và luật "Số phận của nước Tây
cầm ở trong tay cái viện ấy”21. Công dân
từ đủ 21 tuổi trở lên có quyền bầu cử, 25 tuổi trở
lên có quyền ứng cử
Nguyên lão viện không do dân
bầu. Song viện này phối hợp với Hạ nghị viện để bầu chọn Tổng
thống (Giám quốc) và nội các Chính phủ.
Tổng thống và nội các: Chức vụ Tổng thống
(hay Giám quốc) đứng đầu ngành hành pháp do
Nghị viện bầu ra với nhiệm kỳ 7 năm, bầu theo nguyên tắc đa số.
Nếu nước có vua thì vua được truyền ngôi theo chế
độ thế tập (cha truyền con nối).
Tổng thống được chọn trong số các thành
viên của Nghị viện. Tổng thống được bầu xong phải tuyên thệ
trước hai viện, đại khái rằng: "Cứ giữ theo Hiến pháp
dân chủ, không phản bạn, không theo đảng này
chống lại đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có
làm bậy thì dân nó truất ngay".
Chính phủ (nội các) do Nghị viện bầu ra,
gọi là Quốc vụ viện. Nội các gồm khoảng 20 Bộ trưởng hoạt
động tích cực trong trách nhiệm về lãnh vực
chuyên môn của mỗi người ("chứ không phải ăn rồi ngồi
không như các ông Thượng thư ở ta")22.
Viện tư pháp: Viện này quản lý
các quan chức xử án và công việc xét
xử trong nước. Các quan xử án không phải do
các quan cai trị (hành chính) kiêm nhiệm như
ở xứ ta thời quân chủ mà là những người đã
học thông thạo luật lệ Cơ quan tư pháp có quyền
xét xử cả thường dân lẫn chính phủ nữa. Tư
pháp có quyền độc lập, khi xét xử, quan xử
án chỉ tuân theo pháp luật và lương
tâm của mình.
Ngoài ra, trong cơ chế quyền. lực ấy, có
những điểm đáng lưu ý sau đây:
Vai trò của đảng phái chính trị:
Theo Phan Châu Trinh, chế độ nhiều đảng cần thiết để đảm bảo chế
độ dân chủ. Đảng đa số trong Nghị viện làm hậu thuẫn của
Chính phủ, đồng thời thường xuyên có sự đối lập của
Đảng thiểu số Nhờ đó tránh được những sai lầm:
"Còn Chính phủ thì cũng bởi do 2 viện ấy mà
ra. Nhưng mà phải giao quyền cho cái Đảng nào
chiếm số nhiều trong hai viện ấy thì mới được tổ chức Quốc vụ
viện (…). Nếu cái gì mà làm không
bằng lòng dân thế nào cũng có người chỉ
trích. Bởi vì ở trong Hạ nghị viện thế nào cũng
có hai đảng, một đảng tả, một đảng hữu, nếu cái đảng tả
chiếm số nhiều mà cầm quyền trong nước, thì đảng hữu
nó xem xét, chỉ trích, cho nên muốn
làm bậy cũng khó lắm"23.
Vai trò của pháp luật: Chế độ dân
chủ pháp trị được xây dựng trên một nền pháp
luật hoàn chỉnh, ổn định. ông viết: "Dân trị tức
là pháp trị". Pháp luật định ra quyền hạn, nhiệm
vụ của nhà cầm quyền, của từng chức vụ, cơ quan trong bộ
máy nhà nước, từ người thấp nhất đến người cao nhất. Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Phan Châu
Trinh viết: "Nhưng mà thế nào mặc lòng, trong nước
đã có pháp luật kỹ càng, cái quyền
chính phủ có hạn định, khi nào vượt ra khỏi
cái quyền hạn của mình thì không được,
nên dẫu muốn áp chế cũng không biết thò ra
chỗ nào. Vả lại,khi có điều gì phạm đến
pháp luật, thì người nào cũng như người nấy, từ
ông Tổng thống cho đến một người dân nhà quê
cũng đều chịu theo pháp luật như nhaư”24
1 Nguyễn Văn Dương, Phan Chu Trinh tuyển tập, Nxb
Đà Nẵng, sđd, tr 783.
2 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 815 - 816.
3 Phan Bội Châu, toàn tập, Tập 6, Nxb
Thuận Hóa, Huế, 1990, tr 116.
4 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 543 – 541.
5 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 44.
6 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 807 - 808.
7 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 809.
8 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.
9 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.
10 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 817.
11 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.
12 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 784.
13 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 783.
14 Thu Trang, những hoạt động của Phan Chu Trinh tại
Pháp (1911 – 1925), Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2000,
tr175, 178.
15 Huỳnh Thúc Kháng, Thu từ
tùng thoại, Nxb, Nam
Cường, Sài Gòn, 1951, tr.176.
16 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 269.
17 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 270.
18 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 354 - 355.
19 Trần Văn Dầu. Hệ ý thức tư sản và
sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử , Nxb Khoa học
xã hội, 1975, tr.437.
20 Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr 817.
21 Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr 825.
22 Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr 816.
23 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 816.
24 Nguyễn Văn Dương, sđd, tr 816.
Nguồn:http://chungta.com/Desktop.aspx/Tac-gia/Tac-gia/Phan_Chau_Trinh/
|